So sánh cảm hứng yêu nước qua hai bài thơ to lòng và cảnh ngày hè

Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão

Đề bài: Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão

Câu trả lời:


Nội dung bài gồm:

  • Bài mẫu số 1: Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão
  • Bài mẫu số 2: Bài mẫu phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”
  • Bài mẫu số 3: Bài văn phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”
  • Bài mẫu số 4: Văn mẫu phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”
  • Bài mẫu số 5: Chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão

Back to top

Bài mẫu số 1: Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão

Câu thơ đã thể hiện được cái chí và cái tâm của người anh hùng. Đặc biệt khi nhắc đến Vũ Hầu và suy nghĩ “Thẹn với Vũ Hầu” – thẹn với Gia Cát Lượng - một người tài năng và nhân cách vẹn toàn, tác giả đã thể hiện thành công tư tưởng tiến bộ của mình

Bài làm

Yêu nước từ ngàn xưa đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc ta, trờ thành cảm hứng sáng tác của bao tác giả. "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là 1 trong những tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước. Bài thơ đã gửi gắm những tư tưởng và giá trị sâu sắc, tốt đẹp.

Bài thơ ra đời mang trong mình hào khí Đông A hào hùng anh dũng. Thời Trần là một mốc son chói lọi trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, với những kì tích vĩ đại. Chủ nghĩa yêu nước được thể hiện trước hết qua niềm tự hào khi diễn tả hào khí dân tộc với hình ảnh “Ba quân”, tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững:

“Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu“

Câu thơ đã khắc họa hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chãi. "Hoành sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo. Người anh hùng với sứ mệnh trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi, ròng rã đã bao năm mà không biết mệt mỏi. Con người được đặt trong một không gian kì vĩ giữa sông núi đất trời nên bỗng hóa vĩ đại ngang tầm vụ trụ. Hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần xông pha sẵn sàng chiến đấu, cho tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Còn "ba quân", ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Nói đến “ba quân” là nói đến sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi. Với thủ pháp so sánh khéo léo, câu thơ thứ 2 đã làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ”, ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, vững mạnh và oai hùng. Từ đó, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào về sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội. Thủ pháp phóng đại “Khí thôn ngưu” - ý nói thế quân đội mạnh mẽ lấn át cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùng nuốt trôi trâu cũng ca ngợi sức mạnh phi thường của quân đội.

Hai câu thơ đầu đã khắc họa vẻ đẹp người anh hùng dân tộc, hài hòa trong vẻ đẹp của thời đại, gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Tác giả đã bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu “

Hai câu thơ gửi gắm lí tưởng của người anh hùng. Nhắc đến chí là nhắc đến chí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp, để lại danh tiếng cho muôn đời, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng đã lập biết bao chiến công hiển hách nhưng vẫn trăn trở, canh cánh trong lòng chưa trả xong nợ công danh. Đó không phải sự thái quá hay kiêu kỳ mà là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vua giúp nước, là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước, muốn được cống hiến hết mình và sẵn sàng hi sinh.

Câu thơ đã thể hiện được cái chí và cái tâm của người anh hùng. Đặc biệt khi nhắc đến Vũ Hầu và suy nghĩ “Thẹn với Vũ Hầu” – thẹn với Gia Cát Lượng - một người tài năng và nhân cách vẹn toàn, tác giả đã thể hiện thành công tư tưởng tiến bộ của mình. Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng vẫn thấy thẹn. Nỗi thẹn ấy giúp người đọc nhận ra được thái độ khiêm nhường, ý nguyện cháy bỏng được giết giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung của Tổ quốc.

Có thể nói với những biện pháp nghệ thuật khéo léo bài thơ đã xây dựng thành công tượng đài hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá cường địch báo hoàng ân, bảo vệ non sông được vững vàng. Nó không chỉ miêu tả vẻ đẹp người anh hùng mà còn thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của nhà thơ. "Tỏ lòng" vì lẽ đó đã trở thành một tác phẩm tiêu biểu, sức sống bền lâu trong lịch sử văn học dân tộc.

Back to top

Bài mẫu số 2: Bài mẫu phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”

Điều Phạm Ngũ Lão muốn bày tỏ chính là đấng nam nhi phải biết lấy gương sáng của người xưa mà so sánh, để phấn đấu cho xứng với tiền nhân. Niềm khát vọng công danh của tác giả, thực chất là khát vọng được cống hiến tuổi trẻ, công sức, tài năng cho Vua, cho giang sơn xã tắc, để có thể ngẩng cao đầu sống giữa thời đại anh hùng.

Bài làm

Thuật hoài là một tác phẩm nổi tiếng của danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão. Dù được xếp vào loại thơ trữ tình, nhưng từng câu từng chữ lại toát lên cái hào khí Đông A ngút trời của thời đại đó.

Phạm Ngũ Lão [1255-1320] là một người văn võ song toàn, sống thời thời Trần, là vị danh tướng trăm trận trăm thắng. Ông được biết đến sau những chiến công hiển hách chống lại giặc xâm lược Mông - Nguyên.

Phạm Ngũ Lão sáng tác không nhiều, hiện nay tác phẩm còn lại của ông chỉ có hai bài thơ chữ Hán, trong đó có bài thơ thất ngôn tứ tuyệt "Thuật hoài" [dịch ra là Tỏ lòng].

Thuật hoài được sáng tác trong một bối cảnh đặc biệt, bối cảnh an nguy của nước nhà đang bị đe dọa bởi quân Mông - Nguyên hung tàn, bối cảnh mọi tầng lớp của dân tộc nhất trí đồng lòng chống lại ách xâm lược, giữ vững non sống gấm vóc cha ông để lại.

Bài thơ được chia làm hai phần rất rõ ràng. Hai câu mở đầu thể hiện hình tượng của quân đội và con người thời Trần, hai câu sau chính là lời bày tỏ nỗi lòng của tác giả.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên hình ảnh tráng lệ của con người và quân đội thời Trần, qua âm hưởng sảng khoái, hào hùng:

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Qua hai câu thơ này, hình ảnh đấng nam nhi lẫm liệt oai phong đang xả thân vì nước như hiện lên rõ ràng trước mắt. Cũng từ đó, ta cảm nhận được một hào khí Đông A ngút trời của một thời đại anh hùng trong lịch sử.

Trong đó, câu thơ "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu" thể hiện hình ảnh người lính cầm ngang ngọn giáo, luôn trong một tư thế hiên ngang, sẵn sàng tấn công, áp đạo quân thù xâm lược một cách dũng mãnh để bảo vệ giang sơn rộng lớn suốt thời gian dài. Có thể nói, đây cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho dân tộc Việt mạnh mẽ, quật cường, không bao giờ chịu khuất phục, là ánh hào quang tỏa sáng ngời ngời của chủ nghĩa yêu nước, yêu chính nghĩa.

Câu thơ thứ hai "Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu" [dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu], dịch nghĩa là khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời, còn có cách dịch khác là "Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu". Cho dù hiểu theo cách nào thì người đọc cũng đều cảm nhận được sức mạnh vô cùng to lớn, không đối thủ nào có thể địch nổi của quân dân ta.

Chỉ với hai câu thơ, mười bốn chữ, nhưng Phạm Ngũ Lão đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về người lính quả cảm, dũng mãnh, oai hùng trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần. Đồng thời nó cũng thể hiện chí khí, khát vọng sục sôi của đấng nam nhi thời loạn. Phạm Ngũ Lão cũng như bao chí sĩ thời đó, đều nguyện hiến dâng thân mình cho lý tưởng ái quốc, trung quân, khát vọng công danh và trong trách bảo về non sông, gấm vóc như hòa làm một.

Bởi thế cho nên bậc nam nhi như ông mới cảm thấy hổ thẹn khi chưa thể hoàn thành nghiệp công danh. Nỗi lòng ấy được tác giả thể hiện qua hai câu thơ cuối:

"Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu"

Hai câu thơ này có thể hiểu là nam tử chưa hoàn thành chuyện công danh, khi nghe chuyện Vũ Hầu liền lấy làm hổ thẹn. Vũ Hầu ở đây chính là Khổng Minh, nhà quân sư lỗi lạc của Lưu Bị nói riêng và của thời Tam Quốc, cũng như toàn lịch sử nhân loại nói chung.

Điều Phạm Ngũ Lão muốn bày tỏ chính là đấng nam nhi phải biết lấy gương sáng của người xưa mà so sánh, để phấn đấu cho xứng với tiền nhân. Niềm khát vọng công danh của tác giả, thực chất là khát vọng được cống hiến tuổi trẻ, công sức, tài năng cho Vua, cho giang sơn xã tắc, để có thể ngẩng cao đầu sống giữa thời đại anh hùng.

Nếu như hai câu mở đầu bài thơ là âm hưởng hào sảng, chí khí ngút trời, thì hai câu sau, tác giả đã chuyển sang cảm xúc trữ tính, như lột tả nỗi lòng mình bằng giọng điệu thâm trầm, da diết, nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, hùng hồn.

Bài thơ chính là minh chứng rõ ràng nhất cho một võ tướng tài ba "bách chiến bách thắng" lại sở hữu một trái tim nhạy cảm của thi nhân. Thuật hoài chính là tác phẩm xuất sắc, thể hiện nỗi lòng của tác giả, cũng là nỗi lòng chung của tuổi trẻ hùng tráng và lột tả hào khí đời Trần.

Back to top

Bài mẫu số 3: Bài văn phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”

Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững vàng. Vẻ đẹp của người anh hùng lồng trong vẻđẹp của thời đại làm nên hào khí của thời đại nhà Trần, hào khí Đông A

Bài làm

Từ ngàn xưa, nhân dân ta đã có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước mỗi khi đất nước cần. Lòng yêu nước được thể hiện qua nhiều lĩnh vực nhưng có lẽ nổi bật nhất vẫn là ở lĩnh vực văn học. Trong các bài thơ của ông, có một tác phẩm rất đặc biệt “Tỏ lòng” đây chính là tác phẩm đã làm toát lên rất rõ về vẻ đẹp, khí thế của con người nhà Trần. Phạm Ngũ Lão là danh tướng thời Trần, có công rất lớn trong công cuộc chống Nguyên - Mông. “Tỏ lòng” được ông sáng tác khi cuộc chiến lần thứ hai Nguyên - Mông đang đến rất gần, nhằm khơi dậy sức mạnh toàn dân. Lúc đó, tác giả cùng một số vị tướng khác được cử lên biên ải Bắc trấn giữ nước.

Nói đến hào khí Đông A là nói đến hào khí đời Trần. Thời này là mộtmốc son chói lọi trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, quân và dân thời Trần đã kiên cường anh dũng lập nên 3 kì tích: 3 lần đại thắng quân Nguyên - Mông, để có được thắng lợi đó, quân dân thời Trần đã phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ, căm thù giặc sôi sục cùng lòng quyết tâm chiến thắng. Hào khí dân tộc thể hiện ở sự hòa quyện giữa hình ảnh người anh hùng với hình ảnh “Ba quân” đã tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững đang hiện ra

“Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu“

Câu thơ đầu khắc họa một hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chãi, “Hoành sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo, với sứ mệnh trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi ròng rã đã mấy năm rồi mà không biết mệt mỏi. Con người đó được đặt trong một không gian kì vĩ: núi sông, đất nước khiến con người trở nên vĩ đại sánh ngang với tầm vóc vụ trụ. Hình ảnh còn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần xông pha sẵn sàng chiến đấu, một tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Tiếc thay, khi ta chuyển dịch thành “múa giáo” thì phần nào đã làm hai chữ “hoành sóc” giảm đi tính biểu tượng và tư thế oai phong lẫm liệt của hình tượng vĩ đại này. Ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Tuy nhiên, khi nói đến “ba quân”thì sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi biết bao. Câu thơ thứ hai sử dụng thủ pháp so sánh để làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ” chính là ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, nó vững mạnh và oai hùng. Nhờ đó, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào về sự trưởng thành, và lớn mạnh của bậc quân đội. Không chỉ thế, câu thơ còn sử dụng thủ pháp phóng đại “Khí thôn ngưu” - khí thế quân đội mạnh mẽ lấn át cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùngnuốt trôi trâu. Như vậy, hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp người anh hùng hòa trong vẻ đẹp của thời đại hào hùng tạo nên những con người anh hùng. Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung.

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu “

Qua hai câu thơ trên, lí tưởng của người anh hùng đang được thể hiện rõ qua hai cặp từ “nam nhi và công danh”. Nhắc đến chí là nhắc đến chí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp để lại danh tiếng cho muôn đời, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng có nỗi trăn trở, canh cánh trong lòng là chưa trả xong nợ công danh mặc dù con người ấy đã lập lên bao nhiêu chiến công rồi. Đó chính là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vui giúp nước, trong không khí sục sôi của thời đại bấy giờ, chí làm trai có tác dụng cỗ vũ cho con người sẵn sàng chiến đấu giành lại hòa bình cho đất nước.

Ở câu cuối của bài thơ, nói lên cái tâm của người anh hùng, điều đáng quý bên cạnh Trí là còn có cái tâm. “Thẹn với Vũ Hầu” – Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, một tài năng, một nhân cách, một người có tâm, tác giả thẹn vì chưa có tài mưu lược như Gia Cát Lượng chăng? Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng vẫn thấy thẹn. Qua nỗi thẹn ấy, người đọc nhận ra thái độ khiêm nhường, mộtý nguyện cháy bỏng được giết giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung

Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững vàng. Vẻ đẹp của người anh hùng lồng trong vẻđẹp của thời đại làm nên hào khí của thời đại nhà Trần, hào khí Đông A. Bài thơ cũng là nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát vọng lí tưởng, về nhân cách của con người phải được giữ gìn.

Back to top

Bài mẫu số 4: Văn mẫu phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”

Bài thơ đã gợi lên một thời hào hùng của cả dân tộc thời đại nhà Trần cùng ý trí sục sôi chiến đấu của người tráng sĩ và mong muốn cống hiến hết mình cho đất nước của danh tướng Phạm Ngũ Lão. Bài thơ cùng thời đại này có cách xa chúng ta hàng bao nhiêu thế kỷ nhưng vẫn để lại những âm vang lớn trong trái tim triệu triệu người đọc.

Bài làm

Phạm Ngũ Lão là một trong những danh tướng nước ta thời nhà Trần. Ông không viết thơ nhiều nhưng tác phẩm của ông đều để lại những dấu ấn riêng. Bài thơ "Thuật hoài" hay còn gọi là "tỏ lòng" là một tác phẩm nổi tiếng của Phạm Ngũ Lão thể hiện tình yêu nước nồng nàn cùng niệm tự hào và khát vọng cống hiến khi tổ quốc bị xâm lăng.

"Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân kỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"

Bài thơ tỏ lòng được sáng tác bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật, tuy ngắn gọn với bốn câu thơ nhưng lại mang nhiều hàm ý sâu sắc.

Mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã tái hiện hình ảnh quân đội nhà Trần manh mẽ, oai phong thời ấy trên con đường đánh đuổi giặc ngoại xâm:

"Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân kỳ hổ khí thôn ngưu"
[Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạng nuốt trôi trâu]

Hình ảnh người tráng sĩ thời Trần hiện lên trong câu thơ thật oai phong, lẫm liệt qua hình ảnh cây "giáo". Tư thế của người tráng sĩ hiên ngang ấy được đặt trong không gian rộng lớn của "giang sơn" và thời gian dài "kháp kỉ thu". Câu thơ thể hiện sức mạnh khỏe khoắn, tư thế hiên ngang sẵn sàng chiến đấu của người tráng sĩ xưa. Người tráng sĩ ấy đứng giữa non sông đất nước hùng vĩ, luôn vững vàng bảo vệ tổ quốc đã mấy thu rồi. Hình ảnh con người hiện lên thật đẹp đẽ, oai phong như vẽ lên một bức tượng đài bất tận về tráng sĩ oai hùng thời Trần.

Không chỉ hình ảnh một tráng sĩ hiện lên oai hùng, mà cả "tam quân" thời Trần được khắc họa thật mạnh mẽ phi thường. Hình ảnh ẩn dụ, phóng đại "hổ khí thôn ngưu" là một hình ảnh đẹp, mang tầm vóc lớn. "Hổ khí thôn ngưu" mang ý nghĩa như hổ báo "nuốt trôi trâu" có ý nghĩa lớn trong việc tái hiện khí thế hào hùng của đội quân nhà Trần. Hiện lên trong tâm trí người đọc là ba đội quân hùng hậu, đông đảo với sức mạnh to lớn đang ra quân ào ào và khát vọng chiến đấu hết mình cho giang sơn đất nước. Khí thế hào hùng này là khí thế của một thời hào khí Đông A , gợi cho ta nhớ đến những câu oai hùng trong bài Hịch tướng sĩ thời Trần "Ta thường tới bữa quên ăn , nữa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng".

Với hào khí của một thời chiến đấu oai hùng, bảo vệ từng mảnh đất cho giang sơn đất nước, Phạm Ngũ Lão tiếp tục nói lên những suy nghĩ của bản thân về trí làm trai thời ấy:

"Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"
[Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu]

Phạm Ngũ Lão đã nhắc đến món nợ công danh "công danh trái". Đối với những người nam nhi sống trong thời đại xưa, con đường công danh vô cùng quan trọng. "Nợ công danh" ở đây không phải là công danh tầm thường, ích kỷ cho riêng bản thân mình. Mà nó chính là món nợ lớn với đất nước, là ý trí và tài năng của một người nam tử hán đại trượng phu, đầu đội trời chân đạp đất, dám hi sinh vì nghĩa lớn, vì sự nghiệp chung của toàn dân tộc. Qua câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện nỗi lòng, khát khao của bản thân muốn cống hiến nhiều hơn nữa cho giang sơn, đất nước để trả món nợ công danh của trí làm trai. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng từng có nhiều vần thơ hay khi nói về "phận sự làm trai" :

"Vũ trụ chức phận nội
Đấng trượng phu một túi kinh luân.
Thượng vị đức, hạ vị dân,
Sắp hai chữ "quân, thân" mà gánh vác"

Phạm Ngũ Lão đã là một danh tướng, có công lớn với đất nước với thời nhà Trần. Vậy mà ông vẫn luôn cảm thấy hổ thẹn khi nghe "thuyết Vũ Hầu". Ông đã khéo léo khi nhắc đến một người dung trí đa mưa là Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc để thể hiện nỗi thẹn của mình. Ông thẹn bởi chưa đủ tài cao, mưu trí như Gia Cát Lượng. Nhưng cái "thẹn" ấy lại càng làm toát lên nhân cách cao đẹp trong con người Phạm Ngũ Lão. Câu thơ thể hiện một khát khao cháy bỏng của bị tướng có tài, muốn cống hiến hết mình trong sự nghiệp chung của đất nước. Đó là trí khí anh hùng của một vị tướng vừa có tâm, vừa có tầm đáng kính trọng.

Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, lời thơ đanh thép, hào hùng, hình ảnh thơ độ đáo, nhịp thơ khi nhanh mạnh rứt khoát, lúc lại chậm rãi như những dòng suy tư. Bài thơ đã gợi lên một thời hào hùng của cả dân tộc thời đại nhà Trần cùng ý trí sục sôi chiến đấu của người tráng sĩ và mong muốn cống hiến hết mình cho đất nước của danh tướng Phạm Ngũ Lão. Bài thơ cùng thời đại này có cách xa chúng ta hàng bao nhiêu thế kỷ nhưng vẫn để lại những âm vang lớn trong trái tim triệu triệu người đọc.

Back to top

Bài mẫu số 5: Chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão

Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

Bài làm

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:

Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Dịch thơ tiếng Việt:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần [1226 - 14001] là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông - Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ Thuật hoài [Tỏ lòng] được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi - chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu [Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu]; dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài [giang sơn kháp kỉ thu]. Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.

Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. [Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời]. Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.

Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh áy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông [Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ]. Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:

"Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
[Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu].

Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

Back to top

Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão

Dưới đây là cảm hứng yêu nước trong bài thơ tỏ lòng mới nhất đưuọc cập nhập bởi duhocmyau mời các bạn tham khảo ngay nhé.

Bài mẫu số 1 - Phân tích chủ nghĩa yêu nước qua “Tỏ lòng”của Phạm Ngũ Lão

Yêu nước từ ngàn xưa đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc ta, trờ thành cảm hứng sáng tác của bao tác giả. "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là 1 trong những tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước. Bài thơ đã gửi gắm những tư tưởng và giá trị sâu sắc, tốt đẹp.

Bài thơ ra đời mang trong mình hào khí Đông A hào hùng anh dũng. Thời Trần là một mốc son chói lọi trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, với những kì tích vĩ đại. Chủ nghĩa yêu nước được thể hiện trước hết qua niềm tự hào khi diễn tả hào khí dân tộc với hình ảnh “Ba quân”, tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững:

“Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu“

Câu thơ đã khắc họa hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chãi. "Hoành sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo. Người anh hùng với sứ mệnh trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi, ròng rã đã bao năm mà không biết mệt mỏi. Con người được đặt trong một không gian kì vĩ giữa sông núi đất trời nên bỗng hóa vĩ đại ngang tầm vụ trụ. Hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần xông pha sẵn sàng chiến đấu, cho tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Còn "ba quân", ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Nói đến “ba quân” là nói đến sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi. Với thủ pháp so sánh khéo léo, câu thơ thứ 2 đã làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ”, ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, vững mạnh và oai hùng. Từ đó, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào về sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội. Thủ pháp phóng đại “Khí thôn ngưu” - ý nói thế quân đội mạnh mẽ lấn át cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùng nuốt trôi trâu cũng ca ngợi sức mạnh phi thường của quân đội.

Hai câu thơ đầu đã khắc họa vẻ đẹp người anh hùng dân tộc, hài hòa trong vẻ đẹp của thời đại, gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Tác giả đã bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu “

Hai câu thơ gửi gắm lí tưởng của người anh hùng. Nhắc đến chí là nhắc đến chí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp, để lại danh tiếng cho muôn đời, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng đã lập biết bao chiến công hiển hách nhưng vẫn trăn trở, canh cánh trong lòng chưa trả xong nợ công danh. Đó không phải sự thái quá hay kiêu kỳ mà là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vua giúp nước, là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước, muốn được cống hiến hết mình và sẵn sàng hi sinh.

Câu thơ đã thể hiện được cái chí và cái tâm của người anh hùng. Đặc biệt khi nhắc đến Vũ Hầu và suy nghĩ “Thẹn với Vũ Hầu” – thẹn với Gia Cát Lượng - một người tài năng và nhân cách vẹn toàn, tác giả đã thể hiện thành công tư tưởng tiến bộ của mình. Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng vẫn thấy thẹn. Nỗi thẹn ấy giúp người đọc nhận ra được thái độ khiêm nhường, ý nguyện cháy bỏng được giết giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung của Tổ quốc.

Có thể nói với những biện pháp nghệ thuật khéo léo bài thơ đã xây dựng thành công tượng đài hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá cường địch báo hoàng ân, bảo vệ non sông được vững vàng. Nó không chỉ miêu tả vẻ đẹp người anh hùng mà còn thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của nhà thơ. "Tỏ lòng" vì lẽ đó đã trở thành một tác phẩm tiêu biểu, sức sống bền lâu trong lịch sử văn học dân tộc.

Cảm nhận về các bài thơ: Tỏ lòng, Cảnh ngày hè, Nhàn, Đọc Tiểu Thanh kí doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [203.99 KB, 15 trang ]

Cảm nhận về các bài thơ: Tỏ lòng, Cảnh ngày
hè, Nhàn, Đọc Tiểu Thanh kí




Cảm nhận của em về bài thơ Tỏ Lòng
Triều đại nhà Trần [1226-1400] là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng
nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm
lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công
Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử
gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng –
thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn,
“Thuật hoài” [ Tỏ lòng ] của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán
Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
Phạm Ngũ Lão [1255-1320] là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng,
văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và
“Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.
Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công
của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh
tướng Phạm Ngũ Lão.
Hoành sóc giang san kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Cầm ngang ngọn giáo [hoành sóc] là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang
dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng
kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian [giang sơn] vừa mang kích thước thời
gian chiều dài lịch sử [kháp kỷ thu]. Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình
Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa


yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn
giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp [ba quân] với sức
mạnh phi thường, mạnh như hổ báo [tỳ hổ] quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí
thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản
nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao
Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu : ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ
thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam
quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ
Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của
đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn
tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
-“Thuyền bè muôn đội;
Tinh kỳ phấp phới
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…” [Bạch Đằng giang phú]
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát
lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh
hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” [Trần Quốc Toản] – “Đầu thần chưa rơi xuống
đất, xin bệ hạ đừng lo” [Trần Thủ Độ]. “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ,
nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” [Trần Quốc Tuấn]… Khát vọng
ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp
quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ
ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có
thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc.
Hai câu cuối sử dụng một điển tích [Vũ Hầu] để nói về nợ công danh của nam nhi thời
loạn lạc, giặc giã:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
“công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được
làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không


phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh
như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng
dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập
binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người
giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở
cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được
trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” [Trần Nhân Tông].
“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng,
mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng,
trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh
hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”.
Cảm nhận bài thơ Cảnh Ngày Hè
"Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp gương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương."
Bài thơ 8 câu 57 chữ gồm một bức tranh cảnh ngày hè - 6 câu đầu và một lời
bình, suy ngẫm từ bức tranh ấy - 2 câu cuối.
Trong bức tranh đậm màu, nền trời chiều ráng đỏ, một ngôi lầu vắng lặng, cây
hoè cổ thụ ngoài sân tán xanh thẫm, che rợp, bên hiên nhà cây thạch lựu sắc đỏ. Vài
ba chú ve trên các cành cây. Ao sen hồng và xa xa là làng chài đang họp chợ. Có một
người ngồi trên lầu trâm ngâm.
Xem tranh, trước hết ta thấy một tư thế của con nguời ngồi đó. Câu mở đầu
“hóng mát” - ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi.
Nên nhớ, đây là bức tranh thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc
một thời, từng “đau lòng nhức óc” vì vận nước từng cùng Lê Lợi “dựng cầu trúc ngọn


cờ phấp phới”, và sau này sắm vai ẩn sĩ mà tấm lòng vì dân nước không lúc nào yên
“Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”. Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời
Nguyễn Trãi, mới thấy quí cái giây phút ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái tư thế
ung dung thưởng ngoạn kia là sự hưởng thụ chân chính. Sau tư thế ấy, thấy cả cái
không khí yên bình của cả một làng quê, đất nước vừa qua cơn binh lửa.
Con người này có ánh mắt tinh tế, say mê. Người ngắm cảnh có đôi mắt rất
sành : 3 loại cây, 3 dáng vẻ, không trùng lặp. Tả cây, mà lộ ra khuôn mặt của mùa hè.
Cây hoè : tán xanh xum xuê, toả rộng - sức sống vươn cao. Thạch lựu : sắc đỏ - rực rỡ
của tố chất khoẻ mạnh. Sen hồng : đậm hương - tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại
cây, ba dáng vẻ, ba màu sắc nữa [xanh, đỏ, hồng] đều có hồn. Ngôn ngữ của thơ thay
cho chất liệu màu của họa là lời nói sống động của đời thường. Chữ “đùn đùn” khiến
ta cảm nhận được sự sống đang nảy nở mạnh mẽ, trông thấy được bằng mắt thường.
Chữ “phun” còn lạ hơn. Không tả hoa đỏ, mà cảm nhận cây lựu đang phun, đang tuôn
ra sắc đỏ. Sen hồng cố đậm hương. Con ve kia cũng gắng hết sức trong những tiếng
kêu cuối cùng. Chợ ở làng chài đang náo nhiệt nên vọng xa lao xao Chỉ là Bức tranh
phong cảnh ư ? Không phải ! Đấy là Bức tranh đời. Ở đó tạo vật và con người đều
dang sống hết sức mình, sống rất nhiệt tâm, băng mình trong trường tranh đấu sống.
Ta bất ngờ nhận ra điều kì lạ. Con người hoạ sĩ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế
kỉ XV ở Việt Nam có gì rất gần gũi đại danh hoạ Hà Lan thế kỉ XIX, Vanh-xăng-Van-
gốc. Không phải ở những sắc màu được sử dụng, mà ở cách diễn tả nó. Van-gốc vẽ
đồng lúa ta cứ ngỡ cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa.
Van-gốc đốt cháy mình trong tranh. Nguyễn Trãi đốt cháy mình trong thơ. Chữ “đùn
đùn”, “phun”, "tiễn", "lao xao", "dắng dỏi" là lửa sống rừng rực trong lòng Ức Trai
mặc cho do thời thế ông đang phải lui về quy ẩn "Rồi, hóng mát thuở ngày trường".
Trong bức tranh này, thính giác nhậy bén đã giúp Nguyễn Trãi “vẽ” cảnh bằng
nhạc. Xa xa, chợ cá không rõ hình, song âm thanh “lao sao” chở hồn đến cho người
đọc cái rộn ràng nhộn nhịp, náo nhiệt của cuộc sống thanh bình. Nếu “lao sao” là khúc
hoà tấu của đời sống dân sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc
huyền, ngân lên thiết tha cuối chiều, vấn vương nét quí tộc, lầu cao đơn độc. Hai
phong điệu dân dã và quí tộc hoà hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm đà hơi


thở sống.
Cho nên vẽ bức tranh này đâu chỉ là chuyện của giác quan chuyên nghiệp họa
sĩ hay thi sĩ mà là năng lực, phẩm chất của tâm hồn - tâm hồn tinh tế, đằm thắm của
một con người hết mực yêu đời, say mê cuộc sống.
Bức tranh Cảnh ngày hè có một lời bình - một suy ngẫm đứng riêng, độc lập.
Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể
sang chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Ấy
là một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời.
Giấc mơ, đó là giấc mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người
Phương Đông sống trong thời trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên
ổn ấm no hạnh phúc. Trước hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu
"Vận nước như mây cuốn / Trời Nam mở thái bình / Vô vi trên điện các / Xứ xứ dứt
đao binh". Vận nước có rối ren thế nào cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng
làm điều gì nhiễu nhương thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm, vị
vua hiền minh Lê Thánh Tông cố sức mình cũng chỉ để thỏa lòng mong muốn :
Nhà nam nhà bắc đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đời - từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống
như thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình
thiên hạ sao cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.
Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc
đại trí. Đó là tư tưởng “thân dân” [dĩ dân vi bản] từng được vạch rõ trong Bình Ngô
Đại Cáo - "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân".
Đó là tư tưởng lớn. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng ấy từng sôi sục trong hành
động, khắc khoải trong tâm tưởng, rát bỏng trong thi ca. Cả bài thơ 8 chữ, đến tận
dòng cuối cùng, chữ “dân” mới bật ra, song chính là cái nền tư tưởng, tình cảm của tác
giả, cái hồn của bài thơ. Là sợi chỉ dỏ xâu chuỗi cả 8 câu thơ lại.
Cảnh ngày hè [Gương báu răn mình số 43] không định giáo huấn chung. Trước


đời sống đang dâng trào, yên lành thế, Nguyễn Trãi tự răn mình, phải làm sao cho
cuộc sống này trở thành mãi mãi và chỉ khắc khoải một nỗi "tiên ưu" ấy mà thôi.
Cảm nhận bài thơ Nhàn
Nguyễn Bỉnh Khiêm [1491 – 1585] sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của
chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh.
Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến,
ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ
trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân
tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng
của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm
thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.
Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan
niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân,
thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế
quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên
cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm
trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách
nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã
trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa
thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một
cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao
tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong
câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống
nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm
cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc
của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục


lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không
tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của
riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ
đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản
lĩnh:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người kiếm chốn lao xao
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những
vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực
chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một
bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với
một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng
định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định
nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính
toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm
tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà
thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù
hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng
vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở
xưa « Người đời tỉnh cả, một mình ta say » đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào
thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo
danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn -
dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng
hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu –
Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận


riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc
thiện kỳ thân » của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí « vô vi » của đạo
Lão, « thoát tục » của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta
nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên
một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình . Không
những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn
kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình.
Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương
của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự
khẳng định :
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ
sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo
Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại
bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ
ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến, khó thì lui
[Thói đời]
Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của
bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn
gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử [Ghét
chuột] của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là
cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm
bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản
cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực
kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành
vững tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh


Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc
sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con
đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con
người chân chính.
Cảm nhận bài thơ Đọc Hiểu Thanh Ký
Trong gia tài thi ca phong phú của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bộ phận thơ
chữ Hán có vai trò khá đặc biệt. Đó là những bài mà Nguyễn Du có thể trực tiếp bộc
lộ những tâm tư, tình cảm; bày tỏ những day dứt trăn trở của mình. Trong bài thơ
"Độc Tiểu Thanh ký" những tâm sự ấy của Nguyễn Du lại có được sự tương đồng,
gần gũi với cuộc đời, số phận tài sắc mà bất hạnh của Tiểu Thanh.
Bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa nỗi thương người và sự thương mình, giữa
sự xót thương cho kiếp người mệnh bạc và lòng trân trọng ngợi ca những phẩm chất
cao đẹp của con người. Đó cũng là một phương diện quan trọng, sâu sắc trong chủ
nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du.
Trong thơ văn trung đại, không phải ít hình ảnh những người phụ nữ "tài hoa
bạc mệnh", là nạn nhân của cái quy luật "hồng nhan đa truân". Người cung nữ của
Nguyễn Gia Thiều đa tài là thế:
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương"
và: "Cờ tiên, rượu thánh ai đang
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm
Nhưng rồi rốt cuộc cũng chỉ bị nhốt nơi cung cấm mà nuối tiếc quá khứ, chán
nản hiện tại và lo sợ cho tương lai. Tuy nhiên, phải nói rằng chỉ đến Nguyễn Du mới
xuất hiện cả một lớp người mang trọn cái số kiếp bạc mệnh ấy: Kiều, Đạm Tiên,
người ca nữ đất Long Thành Số phận của họ nằm trong mạch cảm hứng chung của
Nguyễn Du và thể hiện tấm lòng nhân đạo bao la ở ông. Bởi thế dễ hiểu vì sao cuộc
đời Tiểu Thanh - một người con gái xa về thời gian, cách về không gian lại nhận được
sự cảm thông sâu sắc như thế từ nhà thơ. Tiểu Thanh cũng đầy đủ tài hoa, nhan sắc,
nhất là tài hoa văn chương, thơ phú. Cuộc đời cuối cùng cũng vùi chôn trong nấm mồ
khi đang độ xuân xanh tuổi trẻ. Phần tinh hoa để lại cho đời cũng tiêu tan chỉ vì cái


lòng ghen tuông ích kỷ, tàn ác của người vợ cả. Sự biến đổi đau thương ấy của cuộc
đời nàng như được hiện hữu trong cảnh vật :
Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Trong nguyên văn, Nguyễn Du dùng chữ "tận" như muốn xoá sạch mọi dấu vết
của cảnh đẹp Tây Hồ, tô đậm thêm ấn tượng hoang vắng, tàn tạ của gò hoang. Sự biến
đổi tang thương của cảnh gợi mối thương tâm đến người. Cảnh đẹp Tây Hồ giờ chỉ
còn gò hoang cũng như tất cả những gì còn lại của Tiểu Thanh tài sắc chỉ là một mảnh
giấy tàn, là phần dư cảo. Nhưng chỉ từng ấy thôi cũng đủ để nhà thơ một mình thương
cảm, xót xa mà khóc cho đời hồng nhan. Tiểu Thanh trong đời thực 300 năm trước
cũng như nàng Kiều, người ca nữ đất Long Thành đều phải hứng chịu:
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
[Truyện Kiều]
Tài sắc của những con người ấy thì được ngợi ca là những giá trị tinh thần cao
đẹp nhưng bản thân họ thì lại bị đày đoạ, chà đạp. Nguyễn Du với tấm lòng nhân đạo
bao la sâu sắc của mình đã thể hiện một sự đồng cảm, xót thương hết sức chân thành
với số phận Tiểu Thanh. Đây là một nét mới mẻ trong Chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn
Du. Đối tượng mà Nguyễn Du thương cảm, quan tâm không chỉ là "thập loại chúng
sinh" đói nghèo đau khổ. Rất nhiều tình cảm của ông hướng về những kẻ tài hoa.
Chính số kiếp của Tiểu Thanh tạo nên cái mối hận ngàn năm để Nguyễn Du
nhắc đến trong hai câu luận:
Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Mối hận ấy hỏi trời không thấu, hỏi đất không hay, chỉ có những kẻ cùng hội
cùng thuyền là có thể cùng nhau than thở. Nguyễn Du tự nhận mình cũng mắc cái nỗi
oan kỳ lạ vì nết phong nhã tài hoa. Nói cách khác sự đồng cảm lớn lao của Nguyễn Du
dành cho Tiểu Thanh có được bởi Nguyễn Du là người đồng cảnh. Lòng thương người
khởi phát từ sự thương mình nên càng chân thực và sâu sắc. Đúng như Mộng Liên
Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyến từng nhận xét rằng: "Thúy Kiều khóc Đạm


Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một, người
đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình
thật là cái mối thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy".
Quả thực cái sự vô tình, trớ trêu của tạo hoá với những kẻ tài năng đã trở thành mối
hận của muôn đời và khắp chốn.
Như vậy, tình thương của Nguyễn Du đối với Tiêủ Thanh là tình cảm của
những người tuy xa cách về hoàn cảnh nhưng lại tương đồng trong cảnh ngộ. Từ nỗi
thương mình mà xót xa cho người. Và từ sự thương cảm cho người lại tiếp tục gợi lên
bao băn khoăn, day dứt cho kiếp mình. Bởi một lẽ, Tiểu Thanh rốt cuộc còn có được
một Nguyễn Du tri âm tri kỷ rỏ lệ xót xa. ít hay nhiều linh hồn văn chương, nhan sắc,
tài hoa "hữu thần" ấy còn có được sự an ủi. Nhưng còn Nguyễn Du, cũng là kẻ "tài tử
đa cùng" lắm sự lận đận gian nan thì 300 năm sau biết còn ai trong thiên hạ tưởng
nhớ, tiếc thương. Đó là cái tâm sự băn khoăn không thể có lời giải đáp mà chỉ nhờ qua
trường hợp Tiểu Thanh, Nguyễn Du mới có cơ hội suy ngẫm và gửi gắm.
Bài thơ có kết cấu đặc biệt: hai câu đầu là cảnh vật, sự kiện, còn 6 câu sau nặng
một khối tình. Khối tình ấy xét riêng ra thì là sự xót xa cho số kiếp Tiểu Thanh và
những băn khoăn về cuộc đời chính tác giả. Nhưng ở tầng sâu khái quát nó là nỗi
niềm của cả một lớp kẻ sĩ tài hoa, tài tử mà nhân ái bao la.


Video liên quan

Chủ Đề