Thế nào là phát triển nhanh, bền vững

(HNM) - Trong các văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, lĩnh vực kinh tế được đề cập đến chủ yếu ở 3 báo cáo: Báo cáo chính trị; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030; Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Trong đó có nhiều điểm mới nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững...

Thế nào là phát triển nhanh, bền vững

Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh vấn đề gắn kết doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước. Trong ảnh: Sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty TNHH Channel Well Technology Việt Nam (huyện Mê Linh). Ảnh: Đỗ Tâm

Đổi mới mô hình tăng trưởng

Báo cáo chính trị Đại hội XIII đã chỉ rõ những hạn chế trong đổi mới mô hình tăng trưởng cũng như cơ cấu lại nền kinh tế: “Hoàn thiện thể chế; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về mô hình tăng trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao”. Vì thế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát triển nhanh và bền vững đất nước là yêu cầu hết sức quan trọng cho giai đoạn tiếp theo.

Điểm mới của văn kiện Đại hội XIII so với văn kiện Đại hội XII được thể hiện ngay ở tiêu đề đã có bổ sung thành tố “Phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Rõ ràng, phát triển nhanh và bền vững là yêu cầu khách quan của đất nước trong bối cảnh hiện nay. Vì trên thực tế, mặc dù chúng ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, nhưng điểm xuất phát còn khá thấp, khoảng cách phát triển so với các nước còn cách xa.

Hiện nay, các điều kiện, cơ hội cho phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh mới đã có, song vấn đề là chúng ta tận dụng các cơ hội đó như thế nào trong giai đoạn tới. Để thực hiện nội dung này, văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh đến việc đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Điểm mới được nhấn mạnh ở đây là mô hình tăng trưởng mới dựa trên tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Điều này, thứ nhất do nền kinh tế của chúng ta phát triển theo chiều rộng đã tới hạn, cần đẩy mạnh phát triển theo chiều sâu. Thứ hai, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc tận dụng cơ hội từ đây là hết sức quan trọng, có tính quyết định tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững cho đất nước. Cùng với đó là tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Về vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế, trong nhiều điểm nhấn có việc văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh đến cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nói chung, để tăng cường gắn kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước. Qua đó khắc phục điểm yếu trong nhiều năm qua là sự thiếu gắn kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nên chưa tạo ra được sự chuyển giao công nghệ, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong nước. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam để thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế cũng là điểm nhấn trong văn kiện Đại hội XIII...

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kế thừa và phát triển nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua các thời kỳ đại hội Đảng từ khi đổi mới đến nay, Báo cáo chính trị Đại hội XIII đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII nêu rõ: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế...”.

Cùng với thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, văn kiện Đại hội XIII cũng nhấn mạnh đến việc tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Cụ thể là tiếp tục hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.

Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường vừa qua ở nước ta cho thấy, một trong những cản trở chính là hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện, chồng chéo, ảnh hưởng đến phát triển nói chung. Đồng thời, trước yêu cầu phát triển mới, đặc biệt tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều ngành nghề mới ra đời cần phải có môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển. Vì vậy, văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới”. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, cải thiện nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Trong đó, phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu.

Tóm lại, những điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII về lĩnh vực kinh tế được thể hiện từ nhận thức đến nội dung chính sách ở cả nội dung đánh giá tình hình, xác định những nội dung chính sách cho giai đoạn tới. Trong đó, tập trung chủ yếu vào nội dung đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh và bền vững. Cùng với đó là nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

(Còn nữa)

(Bài viết có sử dụng tư liệu cuốn “Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng” do Hội đồng Lý luận Trung ương biên soạn).

Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và là xu thế tất yếu của tiến trình phát triển xã hội. Vậy phát triển bền vững là gì? Cùng HieuLuat tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé!

  • Phát triển bền vững là gì?
  • Phát triển bền vững cần đáp ứng các nguyên tắc nào?
  • Các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững là gì?
  • Vì sao phải phát triển bền vững?
  • Định hướng mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 

Phát triển bền vững là gì?

Pháp luật hiện hành không có quy định cụ thể về khái niệm phát triển bền vững. 

Thuật ngữ phát triển bền vững xuất hiện lần đầu tiên tại ấn phẩm “Chiến lược bảo tồn thế giới” (1980) của Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN - International Union for Conservation of Nature and Natural Resources).

Ấn phẩm đề cập nội dung liên quan đến mục tiêu của phát triển bền vững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật”. Tại đây, thuật ngữ phát triển bền vững được đề cập với phạm vi hẹp, chỉ nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái nhằm mục đích kêu gọi bảo tồn các tài nguyên sinh vật.

Tại Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (1987) của Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED - World Commission on Environment and Development) - Liên hợp quốc, khái niệm phát triển bền vững được đề cập là “phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.

Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển được tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) vào năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững được tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) vào năm 2002, khái niệm phát triển bền vững được khẳng định là “quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển gồm phát triển kinh tế (tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên)”.

Từ các khái niệm trên, có thể hiểu phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển gồm phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.

Thế nào là phát triển nhanh, bền vững

Phát triển bền vững cần đáp ứng các nguyên tắc nào?

Từ khái niệm phát triển bền vững, có thể thấy phát triển bền vững cần kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Phát triển bền vững cần đáp ứng các nguyên tắc sau:

- Phát triển bền vững về kinh tế là quá trình đạt tăng trưởng kinh tế ổn định, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo cán cân thương mại thông qua việc nâng cao chất lượng khoa học và công nghệ trong sản xuất và không làm hại đến xã hội, môi trường.

- Phát triển bền vững về xã hội là quá trình phát triển nhằm đảm bảo sự công bằng trong xã hội, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người lao động, đảm bảo mọi người đều được tiếp cận đầu đủ các dịch vụ cơ bản mà không gây hại đến kinh tế và môi trường.

- Phát triển bền vững về môi trường là việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, tránh khai thác quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh, duy trì đa dạng sinh học, giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai.

Các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững là gì?

Kinh tế, xã hội và môi trường là ba trụ cột của phát triển bền vững. Cụ thể tiêu chí đánh giá phát triển bền vững cũng dựa trên ba trụ cột này:

Thứ nhất, về kinh tế

Phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh nhưng vẫn đảm bảo an toàn và chất lượng. Điều này đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế với một số nội dung cơ bản như giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác, thay đổi nhu cầu tiêu thị không gây hại đến đa dạng sinh học và môi trường, tái chế, tái sử dụng, giảm thải, xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối và bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế, giáo dục.

Nền kinh tế được coi là bền vững nếu đạt được những yêu cầu về tỷ lệ tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP cao hơn nông nghiệp đồng thời tăng trưởng có hiệu quả, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.

Thứ hai, về xã hội

Phát triển bền vững về xã hội được đánh giá thông qua chỉ số phát triển con người, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa, hệ số bình đẳng thu nhập,... đảm bảo có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội và mức độ chênh lệch giàu nghèo không quá cao.

Phát triển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính như giảm thiểu tác động xấu của môi trường đến đô thị hóa, ổn định dân số, phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân, nâng cao học vấn, xóa mù chữ, bảo vệ đa dạng văn hóa, bình đẳng giới,...

Thứ ba, về môi trường

Phát triển bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên, chất lượng môi trường sống của con người được bảo đảm (đất, nước, không khí, không gian địa lý, cảnh quan). Điều này đòi hỏi mọi người cần duy trì sự cân bằng bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên đảm bảo duy trì ở giới hạn cho phép.

Phát triển bền vững về môi trường gồm một số nội dung chính như sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ tầng ozon, kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính, phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái, giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm môi trường, cải thiện và khôi phục môi trường ở những khu vực ô nhiễm,...

Thế nào là phát triển nhanh, bền vững

Vì sao phải phát triển bền vững?

Phát triển bền vững không chỉ là xu thế của Việt Nam mà là xu thế chung của các quốc gia trên thế giới. Để phát triển bền vững cần cân đối giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Trong khi tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận mà nhu cầu của con người càng tăng cao. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu đó thì song song với duy trì tốc độ tăng trưởng cao cần có sự khai thác và sử dụng tiết kiệm, hợp lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên đồng thời đảm bảo vấn đề công bằng xã hội giữa các thế hệ.  

Định hướng mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 

Mặc dù khu vực cũng như quốc tế có nhiều biến động với những lo âu về chính trị, chiến tranh thương mại, suy thoái kinh tế hay biến đổi khí hậu toàn cầu, Việt Nam vẫn cam kết thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững theo Chương trình nghị sự 2030 của Liên Hợp Quốc.

Về kinh tế 

Đặt mục tiêu về tốc độ tăng trưởng GDP tăng từ 5% đến 6% hàng năm; GDP bình quân đầu người duy trì ở mức 4% đến 4,45% hàng năm; tốc độ tăng năng suất lao động duy trì ở mức tăng 5% hàng năm. 

Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 tăng gấp 1,5 lần năng suất lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 60 triệu vào năm 2025 và đạt 90 triệu vào năm 2030.

Một số các chỉ số khác cũng được đặt ra cụ thể như tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP đạt trên 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt khoảng 32% đến 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước không quá 4% GDP; yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng khoảng 25% đến 30%; mức tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm từ 1% đến 1,5% trên năm và tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2030 đạt trên 50%.

Về xã hội

Đặt mục tiêu về tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 35% đến 40%, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65% đến 70%, trong đó tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25% đến 26% và tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực thành thị dưới 4%.

Mục tiêu có 10 bác sĩ và trên 26 giường bệnh/1 vạn dân, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,3% đến 1,5% mỗi năm. Đến năm 2025, Việt Nam sẽ không còn tình trạng đói nghèo.

Về môi trường

Đặt mục tiêu xây dựng nền kinh tế phi phát thải với tỷ lệ giảm phát thải nhà kính đạt 25% vào năm 2030 và đạt 45% vào năm 2050. Năm 2030 có thể đạt được mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, chống sa mạc hóa và phục hồi các vùng đất bị thoái hóa. 

Phấn đấu đạt tỷ lệ 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn sử dụng nước sạch và chất thải y tế được xử lý đạt tỷ lệ 95% đến 100%, chất thải nguy hại được xử lý đạt 80% đến 85%. Phấn đấu đạt mục tiêu hầu hết các hộ dân có điện.

Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu như kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao và chất lượng tăng trưởng được nâng lên. Tuy nhiên Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên Việt Nam đặt mục tiêu thuộc nhóm dẫn đầu các nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045. 

Trên đây là nội dung thông tin liên quan đến vấn đề Phát triển bền vững là gì? Vì sao phải phát triển bền vững?. Nếu còn thắc mắc, chưa rõ hãy liên hệ trực tiếp tổng đài

Thế nào là phát triển nhanh, bền vững
 19006199 để được tư vấn, hỗ trợ kịp thời.