Toi chi biet mot dieu la toi khong biet gi ca

Tôi chỉ biết một điều là tôi không biết gì cả

Socrates
Môn học: Triết học Cổ Đại
Giáo sư: Vũ Uyên Thi, S.J.
Học Viên: Trần Hữu Trung, S.J.
Khi nhắc tới Socrates, người ta thường nhớ tới câu nói nổi tiếng của
ông: “tôi chỉ biết một điều là tôi không biết gì cả.” Câu nói này cần
được hiểu như thế nào? Liệu có phải ông thực sự không biết bất cứ
điều gì? Hay còn có cách hiểu nào khác về câu nói đó? Bài viết là
một nỗ lực làm sáng tỏ những thắc mắc vừa nêu.

Phải chăng có một người nào trên thế giới hiểu biết tri thức chắc
chắn đến nỗi mà không một người có lý trí nào có thể nghi ngờ về họ
không? Hay nói cách khác, họ là người biết tất cả mọi thứ. Ngược lại
với cách suy nghĩ này, triết gia Socrates đã nói rằng, “tôi chỉ biết
một điều là tôi không biết gì cả.” Vậy câu nói này có phải là ông
đang thừa nhận rằng, mình chẳng biết điều gì cả theo nghĩa tuyệt

đối như một người có vấn đề về não hay người điên chăng? Để hiểu
đúng và sâu sắc câu nói này của Socrates, người viết sẽ nỗ lực để
làm rõ câu nói này qua việc nhấn mạnh đến cái biết của Socrates có
nghĩa gì? Nó giống hay khác với cái biết của con người nói chung,
và tại sao ông lại nói tôi không biết gì cả, điều này có ẩn gì đằng sau
đó?
Tuy nhiên, trước khi đi vào giải thích và bình luận chính câu nói
này, người viết thiết nghĩ nên đi về nguồn gốc của câu nói qua cái
nhìn sơ bộ về bối cảnh lúc bấy giờ, đặc biệt với khuôn mặt nổi bật là
các nhà Ngụy biện. Tiếp đến, người viết sẽ đi vào phương pháp của
ông, để có thể hiểu cặn kẽ hơn về câu nói, vì cũng chính phương

pháp tiếp cận này đã làm cho ông luôn khao khát tìm kiếm chân lý.
Cuối cùng là một nỗ lực để luận bàn về chính câu nói đó.
Trong tác phẩm Biện Hộ của Plato, Socrates đã kể lại một sự kiện
như sau: khi Chaerephon hỏi vị thần ở thành Delphi xem thử có ai
khôn ngoan hơn Socrates không và vị đồng cô ở đền đã trả lời rằng
không có ai cả. Sau khi nghe lời sấm, ông tự nhủ, lời phán này
muốn nói chi, mang ẩn nghĩa gì? Vì ông ý thức rằng ông chẳng mảy
may có chút tri thức nào, vả lại vị thần không thể nào nói dối. Sau
đó, ông đã quyết định đi đây đó để tìm hiểu ý nghĩa của lời phán
này cho rõ ràng, ngọn ngành. Cuối cùng, ông nhận ra rằng, tất cả
những người nổi tiếng nhất đều là những người ngu dốt nhất. Những
người ít khôn ngoan hơn lại là những người khôn ngoan hơn và tốt
hơn. Từ đó ông kết luận rằng, nếu mình là người khôn ngoan nhất là
bởi vì ông đã hiểu ra và thừa nhận sự dốt nát của mình.
1.

Bối cảnh lúc bấy giờ và một chút so sánh về học thuyết
và lối sống giữa Socrates và các nhà Ngụy biện
Nhiều người Athens vẫn lầm tưởng Socrates là một nhà Ngụy biện,
có thể một phần là do sự phân tích kỳ cùng của Socrates về mọi vấn
đề và từng vấn đề, một thủ pháp mà các nhà Ngụy biện luôn sử
dụng. Tuy nhiên, thực ra Socrates là một một trong những người
phê bình phái ngụy biện tinh tế nhất. Tác giả Samuel Enoch Stumpf,
trong tác phẩm “Lịch sử triết học và các luận đề”, đã cho thấy một
vài điểm khác biệt rõ nét giữa các nhà Ngụy biện và Socrates như
sau: các nhà Ngụy biện hoài nghi về khả năng con người có thể đạt
tới tri thức đáng tin cậy, họ cho rằng, mọi tri thức của con người đều

tương đối, các ý niệm và lý tưởng đạo đức cũng tương đối. Nhưng đối

với Socrates, ông có một động cơ hoàn toàn khác. Ông say mê
theo đuổi sự thật và nghĩ rằng việc tìm kiếm nền tảng cho tri thức
chắc chắn và vững bền là sứ mạng của ông. Socrates dấn mình vào
lý luận, vào “biện chứng pháp” không nhằm mục đích hủy diệt chân
lý hay phát triển những kỹ năng thực dụng mà nhằm đạt tới những
khái niệm sáng tạo về chân lý và cái thiện.[1]
Các nhà Ngụy biện chủ trương trước hết là dạy nghệ thuật tu từ và
thu học phí cho việc giảng dạy của họ. Thật vậy, khi nghệ thuật
thuyết phục nhằm mục đích theo đuổi chân lý, thì không có gì phải
tranh cãi. Nhưng vì họ coi chân lý là một vấn đề tương đối, nên họ bị
tố cáo là dạy các thanh niên cách đổi trắng thay đen để làm cho
một trọng tội thành vô tội, bất công thành hợp pháp. Có thể thấy
rằng, đạo đức bị giản lược thành quyền lực, một hệ quả logic tất yếu
của chủ nghĩa cực đoan ngày càng gia tăng của các nhà Ngụy biện,
dẫn họ tới một chủ nghĩa hư vô về chân lý và đạo đức. Socrates vạch
ra những điểm mâu thuẫn trong logic của những nhà Ngụy biện và
xây dựng lại một khái niệm về chân lý và cũng thiết lập một nền
tảng vững chắc cho các phán đoán đạo đức.[2] Thật vậy, các nhà
Ngụy biện tìm cách gây ảnh hưởng và đánh lừa những người khác
bằng cách thuyết phục họ, nhưng Socrates lại muốn chính người đối
thoại đạt tới được sự nhận thức chân chính bằng sự xác tín của mình.
Theo tác giả Guy Maria Nguyễn Hồng Giáo: “chủ trương của phái
ngụy biện xưa kia mà Socrates đã chống lại, nó hoàn toàn “phi triết
lý”, bởi vì triết học dù mang tính “cá vị” vẫn là một nỗ lực thuần lý
hướng về chân lý loại trừ các ảo ảnh, cái giả dối.”[3] Quả thế, phái
Ngụy biện đã dập tắt nỗi khao khát của con người đi tìm chân lý khi
khẳng định con người là thước đo của mọi sự. Trong khi đó, Socrates
lại thắp lên cho con người khao khát cháy bỏng đi tìm chân lý bằng
chính phương pháp truy vấn của mình.
1.

Phương pháp truy vấn của Socrates
Trong một nền văn hóa mà kiến thức được truyền đạt chủ yếu ngang
qua các thầy dạy, họ mở các trường lớp để truyền đạt kiến thức về
một lĩnh vực nào đó. Giờ đây, Socrates gần như đã làm đảo lộn với
một thái độ hoàn toàn khác là tra hỏi để chính mỗi cá nhân tự sản
sinh ra những điều hiểu biết, kiến thức. Đối với Socrates, kiến thức

hay hiểu biết không phải là một khối mệnh đề hay công thức đã
thành khuôn đâu vào đó để rồi người ta có thể mặc sức viết ra,
truyền đạt, đem bán và cũng không phải là một đồ vật đã được chế
tạo, những gì đã được tích lũy hẳn hoi. Vì tác phẩm Bữa Tiệc cho
thấy rằng, ông chủ nhà Agathon đã nài nỉ Socrates đến bên cạnh
mình để có thể nhờ chạm sát mà ông may ra được hưởng nhờ những
khám phá khôn ngoan của Socrates. Nhưng Socrates đã trả lời,
“Nếu như kiến thức là một cái gì đó đầy tràn hơn và do đó có thể
chảy vào một cái gì đó hao vơi hơn thì quả là hạnh phúc biết mấy”.
Qua đây, có thể thấy rằng, ông đã mang đến một quan niệm hoàn
toàn đổi mới và mang tính cách mạng về nhận thức và hiểu biết.[4]
Theo tác giả Đậu Văn Hồng, khi Socrates nói tôi chỉ biết một điều là
tôi không biết gì cả, “có nghĩa là ông từ chối quan niệm cổ truyền về
kiến thức và hiểu biết. Do đó, phương pháp triết học của ông sẽ
không nhắm truyền đạt kiến thức nhưng là chất vấn các môn sinh,
bởi lẽ ông không có gì là hiểu biết lý thuyết để có thể nói với họ và
dạy cho họ.”[5]Qua đó, ông muốn đánh bật và làm rõ việc hiểu biết
của người khác. Ông muốn họ ý thức được tình trạng vô tri và thiếu
khôn ngoan của họ để giúp họ bung ra khỏi lối suy nghĩ cứng nhắc
và cố hữu đã ở trong họ bấy lâu nay. Hơn thế, việc chất vấn này
cũng cung cấp một sự hiểu biết cơ bản, đảm bảo lớn hơn, rộng hơn về

kinh nghiệm hằng ngày của con người, giúp đi từ những định nghĩa
ít đầy đủ sang một định nghĩa đầy đủ hơn.
Bí quyết trong nghệ thuật đối thoại của Socrates là ở chỗ ông không
bao giờ tỏ ra có ý hướng dẫn mọi người. Như vậy, thay vì thuyết
giảng như một ông giáo sư truyền thống, ông thảo luận. Ông không
chỉ giới hạn trong việc nghe người khác nói nhưng ông sẽ để người
kia nhận ra những điểm yếu trong luận cứ của họ, và khi bị dồn vào
chân tường, cuối cùng họ sẽ phải nhận ra cái gì đúng, cái gì sai.
Công việc của Socrates làm cho mọi người nhận ra sự ngu dốt của
mình và khuyến khích mọi người theo đuổi sự khôn ngoan. Hay nói
cách khác, “tri thức có thể đến từ sự tương tác giữa các ý tưởng, sự
vật để đi đến một sự hiểu biết sâu xa vượt ra khỏi những ấn tượng
ban đầu… Ông khôn ngoan trong việc đặt ra những câu hỏi đúng
hướng, để có thể vượt lên khỏi những ấn tượng ngẫu nhiên về một
điều cụ thể nào đó để dẫn đến một sự hiểu sâu về ý nghĩa và luật phổ
quát nào đó.”[6] Đây là một mối quan hệ tương tác bình đẳng,

chẳng ai trên ai, tất cả cùng nhau để đi tìm chân lý, tri thức đích
thực.
Cũng chính phương pháp này đã làm cho ông đi đến vụ án của
chính mình, vì một khi vạch trần sự ngu dốt của những người đối
thoại và khiến sự tin chắc của họ sụp đổ, sẽ làm cho họ nổi giận,
thậm chí khiến họ lúng túng và cảm thấy bị lăng nhục, và những
người trẻ tuổi tụ tập quanh Socrates hả hê thích thú khi thấy những
bậc đàn anh của mình bị “nhốt vào rọ”. Nhưng thực tế, mục tiêu của
Socrates không phải là muốn lăng nhục họ hay khiến họ lúng túng
nhưng điều ông muốn là khám phá chân lý một cách vô tư qua sự
thảo luận phân tích.
III. Luận bàn về câu nói: “Tôi chỉ biết một điều là tôi không

biết gì cả”
Thật không dễ để hiểu về câu nói này của Socrates, liệu Socrates
tuyên bố rằng mình không biết là có đúng hay không? Tại vì trong
một số cuộc đối thoại, Socrates nói rằng mình biết (chẳng hạn như
trong cuộc đối thoại với Euthydemus). Hơn thế, nếu ông biết, vậy
điều ông biết đó là cái gì? Cái biết này có khác với cái biết của con
người nói chung không? Mà nếu không biết thì cần phải hiểu không
biết đó như thế nào?
Trước khi tìm hiểu cái biết và không biết của Socrates, thật hữu ích
để hiểu rõ hơn về sự nhận thức của Socrates. Trong bài báo khoa
học có tựa đề Socratess’s Conception Of Philosophy, tác giả
Shigeru Yonezawa cho rằng có hai khả thể về tình trạng nhận thức
của Socrates:
Thứ nhất, việc Socrates biết, điều này không thể được, vì ông đã từ
chối việc mình biết về sự tiết độ trong tác phẩm Charmides hay biết
được cái gì là “đẹp và tốt” trong Apology và nhiều điểm khác khi đề
cập đến các nhân đức trong các cuộc đối thoại của ông (trạng thái
1).
Thứ hai, việc Socrates không biết lại chia làm hai nhánh. Đầu tiên,
ông ấy nghĩ ông ấy biết trong khi ông ấy không biết: điều này cũng
không thể, vì nếu Socrates nghĩ ông ấy biết, ông ấy sẽ không có nỗi
sợ (việc ông suy xét chính mình liên lỉ là kết quả từ một nỗi sợ) vì

đặc tính của tình trạng này được diễn tả như không có nỗi sợ (trạng
thái 2a). Tiếp đến, ông ấy nghĩ ông ấy không biết và ông ấy thực sự
không biết như trong tác phẩm Biện Hộ ông đã nhận thức (trạng thái
2b). Quả thế, ông nói rằng ông luôn suy xét mình hằng ngày vì nghĩ
rằng, mình luôn có nguy cơ nơi vào trạng thái 2a. Vì thế, ông không
ngừng suy xét chính mình để luôn ý thức sự ngu dốt của mình.

Thực sự đây là một mũi tên nhưng trúng hai đích, khi suy xét người
đối thoại thì cùng lúc đó chính ông cũng suy xét về chính mình.
Chẳng hạn, khi bàn về câu hỏi ‘Nhân đức là gì?’ Đầu tiên, mặc dù
câu trả lời đến từ người đối thoại, nhưng Socrates có thể suy xét
mình trong khi đề cập đến câu trả lời của người đối thoại. Tiếp đến,
nếu ông không thể đưa ra câu trả lời thích đáng cho chính câu hỏi
của mình, thì rõ ràng ông cũng đang chia sẻ cùng một sự ngu dốt
như người đối thoại. Vì thế, khi suy xét và vén mở cho người khác
thấy sự ngu dốt thì đồng thời cũng suy xét chính mình và không để
mình rơi vào sự kiêu ngạo của tri thức (trạng thái 2a)[7]. Quả thế,
nó đem đến lợi ích cho cả hai bên, người truy vấn và người trả lời
câu hỏi. Qua đây, ông tự nhận mình không biết và không hề tưởng
là mình biết. Một sự nhận thức đích thực về sự ngu dốt của mình và
đây là một động thái tích cực để dẫn mình vào cuộc tìm kiếm đích
thực. Quả thế, trong cuộc đối thoại với Meno, ông cũng đã thừa
nhận rằng, “không phải vì tôi biết rõ câu trả lời mà tôi làm cho
người khác hoang mang. Sự thật là tôi làm họ hoang mang bởi vì
bản thân tôi cũng hoang mang.” Vậy Socrates không biết và thực
sự ông ấy không biết.
Sau khi đã hiểu hơn về sự nhận thức của Socrates, giờ đây, thật cần
thiết để đi vào cái biết của Socrate. Quả vậy, các tác giả Thomas C.
Brickhouse and Nicholas D. Smith trong tác phẩm The Philosophy
of Socratess Conception cho rằng, chúng ta cần phân biệt hai loại
kiến thức (knowledge):[8]
Loại thứ nhất được gọi là tri thức đề xuất thông thường (“ordinary”
propositional knowledge). Loại này cung cấp những thông tin cụ
thể, thông thường. Về loại tri thức này, một vài nơi trong các cuộc
đối thoại, ông Socrates và mọi người đều có. Chẳng hạn, trong cuộc
đối thoại với Euthydemus, Socrates đã thừa nhận rằng, tôi biết
nhiều điều tuy nó không quan trọng. Khi Euthydemus hỏi Socrates

“ông biết được điều gì?
Vâng, tôi biết nhiều điều, nhưng chẳng điều gì quan trọng.
Điều đó cũng được, anh ta nói. Ông có thừa nhận rằng cái gì cũng
là cái nó là và đồng thời cũng không phải là cái nó là?
Không phải thế.
Ông đã chẳng nói rằng ngài có biết một cái gì đó?
Tôi có.
Nếu ông biết thì ông đang biết rồi còn gì.
Hẳn nhiên, về cái tri thức mà tôi có”[9]
Loại thứ hai được gọi là kiến thức chuyên môn, kiến thức người thủ
công hay là sự khôn ngoan (expert knowledge, craft knowledge or
wisdom). Kiến thức này không chỉ là việc biết làm (know-how)
nhưng còn biết một điều gì đó là như thế nào và tại sao, cái biết về
định nghĩa (knowledge of definitions). Về phần này, Socrates luôn
thấy trong mình sự khắc khoải để biết, nhưng ông chẳng bao giờ đạt
tới được. Quả thế, trong các tác phẩm của Plato, Socrates luôn cố
gắng đặt ra những câu hỏi để tìm đến bản chất và định nghĩa tổng
quát của vấn đề. Tuy nhiên, không thể thấy nơi nào, Socrates và
người đối thoại thành công trong việc đạt được định nghĩa tổng quát
đó. Chẳng hạn, trong cuộc đối thoại với Euthyphro, khi bàn về việc
thế nào là đạo đức và vô đạo, Socrates muốn đi đến một ý tưởng
tổng quát hay bản chất làm cho cái gì là vô đạo hay cái gì là đạo
đức. Trong khi đó, Euthyphro chỉ có thể đưa ra những sự giải thích
xung quanh nó, nói lên những thuộc tính của nó, chứ không giải
thích được bản chất hay đi đến một định nghĩa rõ ràng. Và còn
nhiều ví dụ khác nữa như: lòng dũng cảm trong Laches, sự tiết độ
trong Charmides, công bằng trong Nền Cộng Hòa 1, nhân đức trong
Meno. Nếu đi theo con đường này, chắc hẳn, không khó hiểu khi

Socrates nói rằng mình không biết. Ông đã nhận ra rằng, ông
không hiểu bất cứ điều gì một cách đầy đủ. Cũng thế, nếu theo kiểu
truy vấn này, con người chỉ có thể tiếp cận được chân lý, mà không
bao giờ có thể đạt tới được.

Trong tác phẩm Biện Hộ, Socrates nói rằng, mỗi khi tôi thuyết phục
được ai là anh ta chẳng biết gì, người ta tưởng là tôi biết tất cả
những gì anh ta không biết. Nhưng thực ra, tôi đâu biết nhiều hơn
họ, “ông chỉ biết rằng không có sự hiểu biết tuyệt đối, và chính nhờ
thiếu hụt đó mà lý trí của chúng ta còn rộng mở trước chân lý”[10].
Nếu đặt câu hỏi tại sao con người không thể hiểu biết hết được chân
lý, câu trả lời có thể được đưa ra đó là nếu hiểu hết được chân lý thì
chắc họ không còn là người mà đã là thượng đế. Họ cũng chẳng còn
thao thức, khắc khoải để đi tìm chân lý nữa. Quả vậy, “con người chỉ
có thể được gọi làphilósophos (kẻ khao khát hiểu biết), chứ không
phải là sophós (người hiểu biết), từ dành riêng cho thần thánh. T