Ví dụ về đánh giá người học dựa trên phát triển năng lực

NGUYÊN-TẮC-ĐÁNH-GIÁ-THEO-NĂNG-LỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [52.53 KB, 5 trang ]

NGUYÊN TẮC ĐÁNH GIÁ THEO NĂNG LỰC
I. Khái niệm đánh giá theo năng lực:
Đánh giá kết quả học tập theo năng lực cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo
tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Đánh giá kết quả học tập đối với
các môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi lớp và sau cấp học là biện pháp chủ yếu nhằm
xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò quan trọng trong việc cải thiện
kết quả học tập của HS. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức,
kỹ năng và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa.
II. So sánh đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kỹ năng:
Tiêu chí
so sánh

Đánh giá năng lực


1. Mục đích
chủ yếu •
nhất



3. Nội dung
đánh giá


5. Thời

vận •
học
của



học

- Gắn với ngữ cảnh học tập và thực
tiễn cuộc sống của HS.

2. Ngữ cảnh
đánh giá

4. Công cụ
đánh giá

- Đánh giá khả năng HS
dụng các kiến thức, kỹ năng đã
vào giải quyết vấn đề thực tiễn
cuộc sống.
- Vì sự tiến bộ của người
so với chính họ.

Đánh giá kiến thức, kỹ năng

- Những kiến thức, kỹ năng, •
thái độ ở nhiều môn học, nhiều hoạt
động giáo dục và những trải nghiệm •
của bản thân HS trong cuộc sống xã
hội [tập trung vào năng lực thực
hiện].
- Quy chuẩn theo các mức độ
phát triển năng lực của người học.
- Nhiệm vụ, bài tập trong tình

huống, bối cảnh thực.
- Đánh giá mọi thời điểm của quá

- Xác định việc đạt kiến
thức, kỹ năng theo mục tiêu
của chương trình giáo dục.
- Đánh giá, xếp hạng
giữa những người học với
nhau.

- Gắn với nội dung học tập
[những kiến thức, kỹ năng,
thái độ] được học trong nhà
trường.
- Những kiến thức, kỹ
năng, thái độ ở một môn học.
- Quy chuẩn theo việc
người học có đạt được hay
không một nội dung đã được
học.
- Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ
trong tình huống hàn lâm
hoặc tình huống thực.
- Thường diễn ra ở những


trình dạy học, chú trọng đến đánh
giá trong khi học.

điểm đánh

giá


6. Kết quả
đánh giá



- Năng lực người học phụ •
thuộc vào độ khó của nhiệm vụ hoặc
bài tập đã hoàn thành.
Thực hiện được nhiệm vụ càng
khó, càng phức tạp hơn sẽ được coi •
là có năng lực cao hơn.

thời điểm nhất định trong quá
trình dạy học, đặc biệt là
trước và sau khi dạy.
- Năng lực người học
phụ thuộc vào số lượng câu
hỏi, nhiệm vụ hay bài tập đã
hoàn thành.
Càng đạt được nhiều
đơn vị kiến thức, kỹ năng thì
càng được coi là có năng lực
cao hơn.

Hai ví dụ minh họa sau đây cho phép phân biệt rất rõ sự khác nhau giữa đánh kiến
thức, kĩ năng và đánh giá năng lực.
Ví dụ 1. “Anh/Chị hãy nghe, đọc… các tài liệu [kèm theo đây] và sau đó sẽ trình bày

nói về một “tour " du lịch ở Paris”. Qua việc thực hiện nhiệm vụ này, người ta có thể
đánh giá được kĩ năng diễn đạt nói của người học.
Ví dụ 2. "Anh/Chị hãy nghe, đọc… các tài liệu [kèm theo đây] và sau đó chuẩn bị và
tổ chức một “tour” du lịch ở Paris với thời gian 3 ngày cho một nhóm học sinh THPT
Qua việc thực hiện nhiệm vụ này, người ta có thể đánh giá được năng lực giải quyết vấn
đề của người học vì người học không chỉ tìm kiếm các thông tin về Paris mà còn phải tổ
chức như thế nào một chuyến đi du lịch Paris cho một đối tượng cụ thể với các điều kiện
cụ thể : chuyến dụ lịch chỉ có 3 ngày, các học sinh tham gia đi du lịch đều còn nhỏ tuổi và
không có nhiều tiền. Muốn hoàn thành nhiệm vụ hoàn toàn mới này, một nhiệm vụ không
dự kiến, người học phải huy động, vận dụng các kiến thức thu được qua các tài liệu nghe,
đọc…, các kĩ năng giao tiếp, nghe, đọc, nói…, các kinh nghiệm của bản thân để tổ chức
thành công chuyến du lịch này.
III. Nguyên tắc đánh giá năng lực:
Để đánh giá kết quả học tập của người học trong đào tạo dựa vào năng lực cần dựa
vào những nguyên tắc mang tính tổng quát và cụ thể: đã xác định và nhóm các nguyên
tắc này thành bốn nguyên tắc lớn: đánh giá phải phục vụ học, đánh giá phải thực, đánh


giá phải công bằng và đánh giá phải tích hợp với học. Bốn nguyên tắc này không loại trừ
nhau mà gắn kết với nhau và đều tập trung vào người học.
1. Đánh giá phải phục vụ học:
Đánh giá sẽ bao gồm một loạt các kỹ năng và kiến thức đủ để chứng minh năng
lực.
Đánh giá về năng lực phải là một quá trình tích hợp kiến thức và kỹ năng với các
ứng dụng thực tế.
Trong quá trình đánh giá, việc phán đoán để xác định năng lực của người học nên
được thực hiện dựa trên những chứng cứ số liệu thu thập được trong một số tình huống
và ngữ cảnh.
 Đánh giá để phục vụ học phải được thực hiện trong suốt quá trình học và nó phải
luôn luôn chỉ ra cho người học họ đang ở đâu trong quá trình tích hợp phát triển năng lực,

khó khăn nàohọ đang gặp trong việc phát triển các năng lực theo yêu cầu của chương
trình học hay của môn học.
2. Đánh giá phải thực:
Nguyên tắc này liên quan tới tính đích thực của các nhiệm vụ đánh giá. Vì vậy,
đánh giá theo hướng PTNL đòi hỏi các nhiệm vụ đánh giá phải có mối liên hệ chặt chẽ
nhất có thể với các hành động mà học sinh phải thực hiện trong xã hội và trong cuộc sống
hàng ngày và gần nhất có thể với cuộc sống nghề nghiệp và cuộc sống hàng ngày sau này
để các nhiệm vụ đánh giá này có ý nghĩa. Do đó, các nhiệm vụ đánh giá phải tôn trọng
hai nguyên tắc thực và có ý nghĩa.
3. Đánh giá phải công bằng:
Các phương pháp và thực hành đánh giá phải đảm bảo tính công bằng cho tất cả
người học. Nên có một phương pháp tiếp cận đối với việc đánh giá. Quá trình đánh giá
phải nhận được sự phối hợp phát triển / đồng ý giữa người giám định và người được đánh
giá. Cung cấp cơ hội cho người học để họ có thể thách thức năng lực của mình.
Trong đánh giá theo định hướng năng lực, học tùy thuộc vào kết quả đánh giá bởi
người học cũng như bởi người dạy và những người khác có liên quan trong thế giới giáo


dục. Chính vì vậy, kết quả học tập của học sinh phải được so sánh lớp học này với lớp
học khác, giữa giáo viên này với giáo viên khác và giữa trường này với trường khác.
4. Sự linh hoạt của đánh giá:
Đánh giá nên bao phủ toàn bộ quá trình đào tạo.
Quy trình đánh giá năng lực phải đưa đến cho người học khi họ yêu cầu.
Thủ tục đánh giá phải được thực hiện để người học có thể truy cập nhằm giúp cho
người học có thể dễ dàng tiến hành chuyển tiếp từ năng lực thực hiện này sang năng lực
thực hiện khác.
IV. Để việc đánh giá theo năng lực đạt hiệu quả cần:
- Phải biết rõ những hạn chế của từng công cụ đánh giá để sử dụng chúng có hiệu quả.
- Phải biết nó là phương tiện để đi đến mục đích, chứ bản thân không phải là mục đích.
Mục đích đánh giá là để có những quyết định đúng đắn, tối ưu nhất cho quá trình dạy

học.
- Đánh giá bao giờ cũng gắn với việc học tập của người học, nghĩa là trước tiên phải chú
ý đến việc học tập của người học. Sau đó mới kích thích sự nỗ lực học tập của người học,
cuối cùng mới đánh giá bằng chuẩn đạt hay không đạt.
- Đánh giá bao giờ cũng đi kèm theo nhận xét để học sinh nhận biết những sai sót của
mình về kiến thức kỹ năng, phương pháp để học sinh nghiên cứu, trao đổi thêm kiến
thức.
- Qua những lỗi mắc phải của học sinh, giáo viên cần rút kinh nghiệm để phát hiện ra
những sai sót trong quá trình dạy và đánh giá của mình để thay đổi cách dạy sao cho phù
hợp với học sinh.
- Trong đánh giá nên sử dụng nhiều phương pháp và hình thức khác nhau nhằm tăng độ
tin cậy và chính xác.
- Lôi cuốn và khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình đánh giá.
- Giáo viên phải thông báo rõ các loại hình câu hỏi để kiểm tra đánh giá giúp học sinh
định hướng khi trả lời.
- Phải dựa trên những cơ sở của phương pháp dạy học mà xem xét kết quả của một câu
trả lời, của một bài kiểm tra, kết hợp với chức năng chẩn đoán hoặc quyết định về mặt sư
phạm.
- Trong các câu hỏi xác định về mặt định lượng, giáo viên thông qua các câu hỏi yêu cầu
học sinh giải thích bằng lời để xác định rõ nhận thức của học sinh.


- Phương pháp và cách thức tiến hành kiểm tra đánh giá phải diễn ra trong hoàn cảnh
thoải mái, học sinh cảm thấy tự nguyện, không lo lắng hay sợ sệt.
- Không nên đặt những câu hỏi mà bản thân giáo viên không thể trả lời một cách chắc
chắn được




Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh

Cỡ chữ Màu chữ:

1. Quan niệm về đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh

Hiện nay có nhiều quan niệm về năng lực, theo OECD: Năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể; theo Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.

Với những quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập theo định hướng tiếp cận năng lực cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với các môn học và hoạt động giáo dục theo quá trình hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng, thái độ và năng lực, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của học sinh.

Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng, đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Để chứng minh học sinh có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho học sinh được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà trường, vừa sử dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường [gia đình, cộng đồng và xã hội] để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả khả năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục của từng môn học như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hóa, kết tinh kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình thành từ nhiều môn học, lĩnh vực học tập khác nhau, và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người.

Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học như sau:

Một số điểm khác biệt giữa đánh giá tiếp cận nội dung [kiến thức, kĩ năng] và đánh giá tiếp cận năng lực

STT

Đánh giá theo hướng

tiếp cận nội dung

Đánh giá theo hướng

tiếp cận năng lực

1

Các bài kiểm tra trên giấy được thực hiện vào cuối một chủ đề, một chương, một học kì,...

Nhiều bài kiểm tra đa dạng [giấy, thực hành, sản phẩm dự án, cá nhân, nhóm…] trong suốt quá trình học tập

2

Nhấn mạnh sự cạnh tranh

Nhấn mạnh sự hợp tác

3

Quan tâm đến mục tiêu cuối cùng của việc dạy học

Quan tâm đến đến phương pháp học tập, phương pháp rèn luyện của học sinh

4

Chú trọng vào điểm số

Chú trọng vào quá trình tạo ra sản phẩm, chú ý đến ý tưởng sáng tạo, đến các chi tiết của sản phẩm để nhận xét

5

Tập trung vào kiến thức hàn lâm

Tập trung vào năng lực thực tế và sáng tạo

6

Đánh giá được thực hiện bởi các cấp quản lí và do giáo viên là chủ yếu, còn tự đánh giá của học sinh không hoặc ít được công nhận

Giáo viên và học sinh chủ động trong đánh giá, khuyến khích tự đánh giá và đánh giá chéo của học sinh

7

Đánh giá đạo đức học sinh chú trọng đến việc chấp hành nội quy nhà trường, tham gia phong trào thi đua…

Đánh giá phẩm chất của học sinh toàn diện, chú trọng đến năng lực cá nhân, khuyến khích học sinh thể hiện cá tính và năng lực bản thân

2. Quan hệ giữa năng lực với kiến thức, kĩ năng thái độ

Với quan niệm về năng lực như đã nêu trên, trong quá trình học tập để hình thành và phát triển được các năng lực, người học cần chuyển hóa những kiến thức, kĩ năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra trong môi trường mới. Như vậy, có thể nói kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực giúp cho người học tìm được các giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. Khả năng đáp ứng phù hợp với bối của thực tiễn cuộc sống là đặc trưng quan trọng nhất của năng lực, khả năng đó có được dựa trên sự đồng hóa và sử dụng có cân nhắc những kiến thức, kĩ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Những kiến thức là cơ sở để hình thành và rèn luyện năng lực phải được tạo nên do chính người học chủ động nghiên cứu, tìm hiểu hoặc được hướng dẫn nghiên cứu tìm hiểu và từ đó kiến tạo nên. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, trong đó các năng lực có trước được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới; và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt cơ sở để hình thành những năng lực mới.

Kĩ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một môi trường quen thuộc. Kĩ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải nghiệm,… giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi.

Kiến thức, kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kĩ năng trong một lĩnh vực nào đó thì chưa chắc đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kĩ năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.

3. Định hướng kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh

Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực tập trung vào các định hướng sau:

[i] Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học [đánh giá tổng kết] nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học [đánh giá quá trình];

[ii] Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức, … sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo;

[iii] Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương pháp dạy học;

[iv] Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ [độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị] và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá.

Với những định hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt động giáo dục của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay cần phải:

- Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng [theo định hướng tiếp cận năng lực] từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ [theo định hướng tiếp cận năng lực] của học sinh của cấp học.

- Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng.

- Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.

- Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.

Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau:

a] Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh năng lực của học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng [năng lực] môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học.

b] Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Yếu tố đổi mới ở mỗi công đoạn này là:

[i] Thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều hình thức và bằng nhiều phương pháp khác nhau [quan sát trên lớp, làm bài kiểm tra, sản phẩm học tập, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau,...]; lựa chọn được những nội dung đánh giá cơ bản và trọng tâm, trong đó chú ý nhiều hơn đến nội dung kĩ năng; xác định đúng mức độ yêu cầu mỗi nội dung [nhận biết, thông hiểu, vận dụng,...] căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng; sử dụng đa dạng các loại công cụ khác nhau [đề kiểm tra viết, câu hỏi trên lớp, phiếu học tập, bài tập về nhà,...]; thiết kế các công cụ đánh giá đúng kĩ thuật [câu hỏi và bài tập phải đo lường được mức độ của chuẩn, đáp ứng các yêu cầu dạng trắc nghiệm khách quan hay tự luận, cấu trúc đề kiểm tra khoa học và phù hợp,...]; tổ chức thu thập được các thông tin chính xác, trung thực. Cần bồi dưỡng cho học sinh những kĩ thuật thông tin phản hồi nhằm tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học.

[ii] Phân tích và xử lý thông tin: các thông tin định tính về thái độ và năng lực học tập thu được qua quan sát, trả lời miệng, trình diễn,... được phân tích theo nhiều mức độ với tiêu chí rõ ràng và được lưu trữ thông qua sổ theo dõi hàng ngày; các thông tin định lượng qua bài kiểm tra được chấm điểm theo đáp án/hướng dẫn chấm – hướng dẫn đảm bảo đúng, chính xác và đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật; số lần kiểm tra, thống kê điểm trung bình, xếp loại học lực,… theo đúng quy chế đánh giá, xếp loại ban hành.

[iii] Xác nhận kết quả học tập: xác nhận học sinh đạt hay không mục tiêu từng chủ đề, cuối lớp học, cuối cấp học dựa vào các kết quả định lượng và định tính với chứng cứ cụ thể, rõ ràng; phân tích, giải thích sự tiến bộ học tập vừa căn cứ vào kết quả đánh giá quá trình và kết quả đánh giá tổng kết, vừa căn cứ vào thái độ học tập và hoàn cảnh gia đình cụ thể. Ra quyết định cải thiện kịp thời hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh trên lớp học; ra các quyết định quan trọng với học sinh [lên lớp, thi lại, ở lại lớp, khen thưởng,…]; thông báo kết quả học tập của học sinh cho các bên có liên quan [Học sinh, cha mẹ học sinh, hội đồng giáo dục nhà trường, quản lý cấp trên,…]. Góp ý và kiến nghị với cấp trên về chất lượng chương trình, sách giáo khoa, cách tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục,...

Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực, không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.

Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành; kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Kiểm tự luận thường đòi hỏi cao về tư duy, óc sáng tạo và tính lôgic của vấn đề, đặc biệt là sự thể hiện những ý kiến cá nhân trong cách trình bày, tuy nhiên không bao quát được hết kiến thức chương trình giáo dục phổ thôngc và kết quả kiểm tra nhiều khi còn phụ thuộc vào năng lực của người chấm bài. Kiểm tra trắc nghiệm khách quan với ưu là thích hợp với quy mô lớn, học sinh không phải trình bày cách làm, số lượng câu hỏi lớn nên có thể bao quát được kiến thức toàn diện của học sinh, việc chấm điểm trở nên rất đơn giản dựa trên mẫu đã có sẵn, có thể sử dụng máy để chấm cho kết quả rất nhanh, đảm bảo được tính công bằng, độ tin cậy cao. tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là không thể hiện được tính sáng tạo, lôgic của khoa học và khả năng biểu cảm trước các vấn đề chính trị, xã hội, con người của đất nước, nhiều khi sự lựa chọn còn mang tính may mắn. Do đó việc kết hợp hai hình thức kiểm tra này sẽ phát huy được những ưu điểm và hạn chế bớt những nhược điểm của mỗi hình thức kiểm tra.

Tài liệu tham khảo

1. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2. Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh các môn học, Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2014.

3. Website: //tusach.thuvienkhoahoc.com.

Gửi email
In trang

10 CÁCH ĐÁNH GIÁ HỌC SINH CÓ THỂ THỰC HIỆN TRONG 90 GIÂY

Để việc đánh giá trở nên hiệu quả. Giáo viên nên tiến hành các đánh giá thường xuyên. Mục đích của nó để thu được những phản hồi nhanh về mức độ hiểu biết của học sinh – càng nhiều phản hồi, bức tranh về kiến thức của người học sẽ càng đầy đủ hơn.

Last updated Th9 18, 2020
Cách đơn giản để đánh giá học sinh!

Vào một ngày đẹp trời, bạn thấy một học sinh xuất sắc, bạn quyết định cho bài kiểm tra đó 10 điểm. Nhưng liệu rằng, điểm 10 đó có cho bạn biết chính xác những gì học sinh hiểu và học sinh có thực sự hiểu những điều mà chúng đã làm hay chỉ lặp lại theo đúng cách mà giáo viên đã yêu cầu. Và khi đánh giá lại, kết quả có thể sẽ thấp hơn do cách diễn đạt câu hỏi, ý thức của học sinh về năng lực bản thân cùng những nhân tố khác,… Điều này nghe có vẻ hiển nhiên, nhưng chúng ta lại ít khi để ý đến nó. Bên cạnh những yếu tố khách quan, còn có rất nhiều những yếu tố chủ quan mà trong đó mỗi học sinh là một con người với vô vàn những vấn đề cá nhân khác nhau, sự xao lãng và những khó khăn ảnh hưởng đến việc lưu giữ và gợi nhớ thông tin,…

Điều này tạo ra những tranh luận gay gắt về giá trị của các đánh giá tổng kết đi liền với các bài kiểm tra. Nó có thể tạo ra những phản ứng ngược và “tiếp tay” cho những học sinh nhiều “mánh khóe” và đang cố tình đối phó với các bài kiểm tra thay vì hình thành năng lực thực sự. Tuy nhiên, việc đánh giá học sinh đã và đang trở thành gánh nặng lớn [cho cả giáo viên và học sinh] khi phải dành quá nhiều thời gian để lập đề cương, thiết kế các câu hỏi, thời gian hoàn thành bài, chấm bài, xếp loại và nhập dữ liệu vào sổ điểm,…. Vậy tại sao, chúng ta không loại bỏ nó và tiến hành các hoạt động kiểm tra đánh giá đơn giản và hiệu quả hơn?

Các kĩ thuật đánh giá quá trình và đưa phản hồi nhanh

Như đã đề cập ở trên, các đánh giá tổng kết được sử dụng quá nhiều sẽ dẫn đến những hiệu ứng ngược. Vì vậy, giáo viên cần tập trung vào các đánh giá quá trình – nó được tiến hành xuyên suốt trong các bước của quá trình học tập. Giáo viên sẽ liên tục ghi nhận mức độ làm chủ kiến thức, kĩ năng của học sinh qua các giai đoạn và đưa các phản hồi kịp thời. Các hoạt động này có thể đơn giản hoặc phức tạp, nhưng mục đích của nó là đo được năng lực thực sự của học sinh.

Dưới đây là một số hoạt động đánh giá nhanh khá hiệu quả mà các giáo viên có thể tham khảo và sử dụng trong lớp học của mình. Sau quá trình đánh giá, giáo viên nên lưu lại kết quả để làm bằng chứng cho những đánh giá tổng kết sau này.

  1. Giải quyết vấn đề thực tiến

Yêu cầu học sinh đưa ra một chủ đề, một nhận định, các luận điểm, các yếu tố, quy trình một cách khoa học… và sử dụng theo một vài cách khác với cách giáo viên vẫn dạy trên lớp. Ví dụ khi dạy tiến trình làm thí nghiệm, nghiên cứu, thu thập thông tin, giáo viên có thể cho học sinh ứng dụng để điều tra một vụ án, truy bắt tội phạm,… nghĩa là giải quyết một vấn đề của thực tiễn.

Nó cho phép học sinh quan sát dữ liệu, hình thành lý thuyết, kiểm tra lý truyết khi thu thập thêm dữ liệu và đưa ra kết luận và sau đó giáo viên có thể đánh giá được mức độ làm chủ kiến thức.

  1. Được làm và không được

Yêu cầu học sinh đưa ra 3 điều được phép làm và 3 điều không được làm khi thực hành, áp dụng, liên quan đến nội dung kiến thức [ví dụ: 3 điều được làm và không được làm khi giải phương trình].

Ví dụ, khi cộng hai phân số: phải tìm được một mẫu số chung, phải cộng các tử số khi tìm thấy mẫu số chung, không được cộng các mẫu số…

  1. Những “sai lầm” phổ biến nhất

Kết thúc tiết học hoặt một hoạt động học tập, giáo viên yêu cầu học sinh liệt kê 3 lỗi sai mà chúng cho là phổ biến nhất trong mỗi bài học dựa trên suy nghĩ cá nhân và quan sát các bạn cùng lớp. Bằng việc phân tích những lỗi sai mà học sinh liệt kê, giáo viên có thể đánh giá được năng lực nhận thức của học sinh.

Ví dụ: Trong việc phân tích giọng điệu của văn bản, hầu hết mọi người đều nhầm lẫn giữa ngôn ngữ và giọng điệu, hãy yêu cầu học sinh xem xét đối tượng một cách cụ thể và tìm ra những lỗi sai phổ biến nhất.

  1. Lập bảng “có” hoặc “không”

Lập một checklist những gì học sinh hiểu và không hiểu về nội dung bài học, giáo viên có thể cho học sinh đánh dấu vào 1 trong 2 ô “hiểu” hoặc “không hiểu”. Sau đó giáo viên sẽ thu thập và cho học sinh biết kết quả chung của cả lớp và điều chỉnh khi cần thiết.

Ví dụ, Khi tìm hiểu về cấu trúc đoạn văn.

Học sinh hiểu: Biết được câu chủ đề là gì, một đoạn văn cần có bao nhiêu câu, đoạn văn đó nên nói về một ý tưởng

Học sinh không hiểu: làm thế nào để kết đoạn, làm thế nào để biết tôi đã trả lời đủ ý trong đoạn văn đó và làm sao để sửa một đoạn văn.

  1. Đặt 3 câu hỏi

Giáo viên yêu cầu học sinh đặt 3 câu hỏi về chủ đề của bài học, sau đó sắp xếp chúng theo thứ tự quan trọng. Bằng cách nào chúng ta có thể đánh giá được mức độ tư duy của học sinh về bài học.

Ví dụ về phản ứng của học sinh:

Ít quan trọng: Từ “tam giác” có nghĩa là gì?

Quan trọng trung bình: Hình tam giác có phải là hình duy nhất có 3 cạnh không?

Quan trọng hơn: Tại sao hình tạm giác lại không xuất hiện nhiều trong tự nhiên [trong khi các hình khác thì có]?

  1. Giải thích vấn đề một cách ngắn gọn

Cho học sinh tự chọn và giải thích phần quan trọng của một nội dung nào đó trong hai câu hoặc ít hơn. Hoạt động này, giáo viên có thể yêu cầu bất cứ học sinh nào thực hiện. Đó cũng là cách để xem khả năng làm chủ các đơn vị kiến thức của học sinh.

Khi học sinh trình bày, giải thích về một vấn đề nào đó, chúng sẽ bộc lộ khả năng hiểu biết, mức độ nắm kiến thức của chúng.

  1. Bức tranh lớn

Cho học sinh tưởng tượng ra bối cảnh “một bức tranh lớn” nơi nội dung bài học xuất hiện, sau đó tìm ra mối liên hệ giữa các nội dung bài học và hiểu được sâu sắc về nội dung đã học. Đây là cách tốt nhất giúp học sinh phát triển khả năng tưởng tượng và bán cầu não phải.

Ví dụ: Hãy tưởng tượng đến cuộc sống của người nông dân thời kì trung cổ và hiểu được tại sao họ lại đứng lên khởi nghĩa,…

  1. Sơ đồ Venn

Hãy so sánh, đối chiếu với một chủ đề đã cho với một chủ đề khác [ví dụ, từ vòng tuần hoàn nước đến chưng cất, từ tượng trưng đến ám chỉ…] để tìm ra những điểm giống và khác giữa các chủ đề. Đây là thao tác quan trọng trong quá trình tư duy.

Ví dụ: Lập biểu đồ Venn so sánh và đối chiếu giữa hình Vuông và hình thoi, giữ chế độ nô lệ thời cổ đại và chế độ nô nệ ở nước Mỹ.

  1. Viết ra

Viết ra những gì bạn hiểu về một chủ đề. Cách làm này sẽ khiến học sinh cảm thấy tự do hơn khi thực hiện. Thông qua những gì học sinh viết, giáo viên sẽ có bằng chứng về mức độ nắm kiến thức của người học.

Ví dụ: cho học sinh từ khóa của bài về “Biển”, hãy viết tất cả các từ khóa có liên quan đến chủ đề Biển mà bạn biết, sau đó lí giải vì sao lại có sự liên hệ đó.

  1. Giải thích cho người khác

Hãy chứng minh cho một người nào đó không biết gì về chuyên môn cũng có thể hiểu được nội dung bạn trình bày. Đó là cách giúp học sinh giải thích nội dung kiến thức bằng nhiều cách khác nhau với sự đa dạng của ngôn ngữ điễn đạt. Học sinh cũng có thể sử dụng các công cụ khác như sơ đồ, văn bản hoặc những thứ liên quan…

Ví dụ: Hãy giải thích cho một đứa trẻ mầm non hiểu về khái niệm “tự do” và “luật pháp”,…

Trên đây là một vài hình thức đánh giá “nhanh”, “đơn giản” và “thường xuyên”, nó sẽ giúp bạn tiết kiệm được thời gian công sức thiết kế các bài kiểm tra nhưng vẫn thu được hiệu quả, đo được mức độ hiểu biết và khả năng tư duy của học sinh. Nếu bạn có những hình thức khác, hãy chia sẻ cùng chúng tôi trong phần bình luận bên dưới!

Các ý tưởng sáng tạo trong dạy học: HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Ý TƯỞNG VÀ CÔNG CỤ://taotailieu.com/tai-lieu/tai-lieu-hoat-dong-day-hoc-y-tuong-va-cong-cu/

Táo Giáo Dục

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề