Lý khánh văn là ai

Đăng nhập

Đăng nhập để trải nghiệm thêm những tính năng hữu ích

Zalo

  • Nóng

  • Mới

  • VIDEO

  • CHỦ ĐỀ

TAG

LÝ KHÁNH VĂN

Chính sử thường ghi lại rất sơ sài và huyền bí về thân thế vua Lý Thái Tổ: “Vua họ Lý [Nguyễn] huý là Công Uẩn, người Cổ Pháp. Mẹ là bà Phạm Thị đi chơi ở chùa Tiêu gặp người thần rồi có mang sinh ra vua ngày 12/2 năm Giáp Tuất” [năm 974].

Nương nhờ cửa Phật

Mẹ vua Lý Thái Tổ được chính sử ghi chép là bà Phạm Thị [Ngà] người thôn Dương Lôi [xưa là Diên Uẩn, Cổ Pháp], xã Tân Hồng [Từ Sơn - Bắc Ninh]. Văn bia “Lý gia linh thạch” ở chùa Tiêu cũng viết về việc này. Tuy nhiên, Lý Công Uẩn được sinh ra ở đâu thì vẫn là một bí ẩn gây tranh cãi bởi quá nhiều tư liệu ghi chép khác nhau.

Trong sách “Thiên Nam ngữ lục” ghi lại một chi tiết hiếm hoi: Biết bà Phạm Thị có thai, sư trụ trì chùa Ứng Đại [tức Ứng Đại Thiên Tâm, Tràng Liêu tức là Thiên Tâm, tức Lục Tổ – chùa Tiêu] là Vạn Hạnh đã “đuổi” bà ra khỏi chùa vì sợ mang tiếng, “bà lang thang đi hành khất về đến chùa Kẻ Gia Châu thì sinh ra vua”.

Bà Phạm Thị sống ẩn dật trong ngôi lều nhỏ một gian hai chái vốn là quán bán nước của mẹ con bà khi xưa, quán này cách chùa Gia Châu khoảng 80m về phía Bắc. Đêm 12/2 năm Giáp Tuất, bà Phạm Thị trở dạ tại ngôi quán nhỏ.

Đêm ấy mưa to, gió lớn, sấm chớp đì đùng, cậu bé ra đời khôi ngô tuấn tú, mặt to, tai lớn, tay dài quá đầu gối, hai bàn chân mang mạng đế vương. Chính tại quán nước thủa ấy, sau này khi Lý Công Uẩn lên ngôi, dân làng Diên Uẩn đã xây thành ngôi nhà 3 gian làm nơi thờ cúng, gọi là Cầu Đường.

3 năm sau, bà Phạm Thị ẵm con đến nương nhờ cửa Phật tại chùa Cổ Pháp. Đó là ngôi chùa cổ thuộc thôn Đại Đình, cách Diên Uẩn không xa. Sư trụ trì chùa này là Lý Khánh Văn sẵn lòng tiếp nhận đứa trẻ làm con nuôi và đặt tên là Lý Công Uẩn.

Biết con mình đã được nương thân vào nơi tin tưởng. Bà Phạm Thị tạm yên lòng, dứt ruột từ biệt con, dặn dò sư Lý Khánh Văn mấy lời cuối cùng rồi ra đi. Dân làng Diên Uẩn, Dương Lôi từ ngàn xưa vẫn lấy ngày mùng 7 tháng Giêng làm ngày giỗ bà, nay là ngày hội chùa Cha Lư.

Chùa Dận, nơi các thiền sư nổi tiếng như Định Không, Vạn Hạnh tu hành.

Ai là cha của Lý Công Uẩn?

Đó là câu hỏi gây rất nhiều tranh cãi trong giới sử học cả trong và ngoài nước. Cho đến nay, không có bất cứ ghi chép chính thống nào khẳng định về cha của vua Lý Công Uẩn. Nhà nghiên cứu lịch sử Trần Viết Điền sau rất nhiều tìm hiểu lẫn đối chứng qua các tư liệu đành tạm kết luận về cuộc hôn nhân của bà Phạm Thị là với “thần nhân”.

Ý kiến này nhận được nhiều tán đồng, vì nếu xét về mặt lịch sử thời bấy giờ việc Lý Công Uẩn là con của “thần nhân” sẽ thỏa được những khao khát của một dân tộc đang đón chờ Thiên tử. Tuy nhiên, khoa học thì phải có căn cứ và buộc phải loại trừ các yếu tố mang tính huyễn hoặc, thần bí.

Theo ông Điền, thiền sư Vạn Hạnh tạo điều kiện cho bà Phạm Thị Ngà vào rừng gặp “thần nhân”. “Thần nhân” ở đây luôn trong ngoặc kép, vì đó là một cuộc hôn nhân bí mật - trong đó cha của Lý Công Uẩn rất có thể là một người đầy uy vọng của họ Lý vùng Cổ Pháp - Siêu Loại, tức Diên Uẩn - Thổ Lỗi, đang trong thời kỳ phải mai danh ẩn tích.

Mặc dù sự nghiệp của vua Lý Công Uẩn rất vĩ đại, nhưng sử sách lại chép không rõ ràng về lai lịch của ông. Tất cả các bộ sử cũ của nước ta, thường không chép, hoặc không xác định được ai là cha của Lý Thái Tổ.

Cho đến nay vẫn tồn tại giả thuyết nói Lý Công Uẩn là con đẻ của sư Vạn Hạnh. Tuy nhiên, giả thuyết này từng bị các nhà sử học bác bỏ vì các Phật tử mộ đạo vùng Siêu Loại – Cổ Pháp không thể mù quáng đảnh lễ một vị quốc sư phạm giới luật như giả thuyết đã táo bạo đưa ra.

TS Lê Viết Nga, nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh, cho hay: “Đúng là có thuyết nói Lý Công Uẩn là con thiền sư Vạn Hạnh nên không được ở trong chùa mà giao cho Lý Khánh Văn giúp đỡ. Sách “Thiên Nam ngữ lục” nói rất rõ về điều này, nhưng chúng ta chỉ coi đó là một giả thuyết”.

Sư Vạn Hạnh họ Nguyễn, Lý Công Uẩn cũng được cho là người họ Nguyễn làng Cổ Pháp. Lý Công Uẩn lại theo học thầy Vạn Hạnh từ nhỏ, nhưng không đi theo con đường của thầy mà lại trở thành tướng quân triều đình nhà Lê. Vậy Lý Công Uẩn người họ Lý hay người họ Nguyễn? Đây thực là việc rất khó bởi vì ngay họ Lý của vua cũng là lấy theo họ của cha nuôi Lý Khánh Văn.

Phổ hệ [giả thuyết] gia tộc Lý Công Uẩn và sư Vạn Hạnh do nhà nghiên cứu Trần Viết Điền dựng.

Dựa vào các tư liệu ghi chép, giới nghiên cứu cho rằng, Lý Công Uẩn biết mẹ, biết bà nội nhưng cha và ông nội thì lại không biết. Nhà nghiên cứu Trần Viết Điền truy về Lý Khuê, ông cho rằng: Sau thua trận, con cháu của Lý Khuê phải trốn chạy, ẩn nấp nên giấu tung tích. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là khi Lý Công Uẩn lên ngôi, không còn thế lực truy sát dòng họ Lý Khuê thì cần gì Lý Công Uẩn phải giấu họ thật của mình?

Câu hỏi này vô tình lại liên quan đến một nghi vấn của giới nghiên cứu sử học, rằng Lý Công Uẩn có thực sự là đệ tử Phật môn hay chỉ là Phật tử tại gia - thường hay lui tới chùa để theo học thầy Vạn Hạnh? Vì không thấy Lý Công Uẩn theo con đường tu học của thầy và cũng có lần sư Vạn Hạnh nói với bác và chú của Lý Công Uẩn về việc ngài sẽ lên ngôi.

Ngược về sự kiện bà mẹ Lý Công Uẩn phải vào rừng sinh sống, rồi khi đứa bé lên 3, bà phải gửi con cho nhà sư Lý Khánh Văn nuôi dạy. Cuối cùng, giao cho sư Vạn Hạnh đào tạo có thể là cơ sở của một cuộc sắp xếp mang tính chính trị diễn ra lâu dài – từ trước khi Lý Công Uẩn ra đời. 

Vua họ Lý hay họ Nguyễn?

Cách đây 200 năm, các sử gia biên soạn “Quốc sử quán triều Nguyễn” cũng phải ghi rằng: “Gốc tích họ Lý lờ mờ không khảo được…”, và đành khuất phục “xin hãy chép lại để khảo về sau”.

Những sách sử xuất hiện sớm như “An Nam chí lược” và “Việt sử lược” đều ghi chép trần tục về Lý Công Uẩn, rất khác với ghi chép thần thánh hóa của “Đại Việt sử ký toàn thư”, cho thấy việc thần thánh hóa này là do dân gian kiến tạo chứ không phải khởi từ thầy Vạn Hạnh.

Theo đánh giá của các nhà sử học, Lý Công Uẩn không phải là con thần cháu thánh như truyền thuyết, cũng chẳng phải là con của ngọc hoàng thượng đế mà là một vị vua được nhân dân “hoài thai” suốt một thời đau đáu; được giáo dưỡng đầy tâm huyết của lớp trí thức tam giáo tiến bộ thế kỷ X.

Tượng thiền sư Vạn Hạnh – người đã dạy dỗ và đề bạt Lý Công Uẩn với vua Lê.

Cố GS Trần Quốc Vượng trong nghiên cứu “Nhà Lý và văn minh Đại Việt” viết rằng: “Nếu Lý Công Uẩn không phải là con đẻ thì cũng chính là đứa con tinh thần của thiền sư Vạn Hạnh. Vạn Hạnh không chỉ là người đạo dẫn đời sống tâm linh mà còn là một người chỉ đạo hành động của vua quan và dân chúng đương thời. Ông có kiến thức rộng và hành động trong tinh thần tự do phá chấp của đạo Phật”.

Giới trí thức tiến bộ lúc bấy giờ, đứng đầu là thiền sư Vạn Hạnh, phải chọn lựa một con đường cho dân tộc. Trong tam giáo thì phải thừa nhận Phật giáo là mạnh nhất về cả tinh thần lẫn vật chất. Nho giáo chưa có lực lượng quần chúng rộng lớn; hơn nữa việc học theo Khổng Mạnh lúc bấy giờ ít nhiều đồng lõa với phương Bắc.

Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Vạn Hạnh bảo Lý Công Uẩn rằng: Mới rồi tôi trông thấy lời sấm kỳ dị, biết rằng họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng ông là người khoan từ nhân thứ, lại được lòng dân chúng mà nắm binh quyền trong tay, người đứng đầu muôn dân, chẳng phải ông thì còn ai đương nổi nữa!”. 

Lý Thái Tổ [chữ Hán: 李太祖 8 tháng 3 năm 974 – 31 tháng 3 năm 1028] tên thật là Lý Công Uẩn [李公蘊] là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.

Lý Thái Tổ
李太祖Hoàng đế Việt Nam

Tượng Lý Thái Tổ tại Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội [dựng năm 2004].

Hoàng đế Đại Cồ ViệtTrị vì21 tháng 11 năm 1009 –
31 tháng 3 năm 1028
[18 năm, 131 ngày]

Tiền nhiệmSáng lập triều đại
Lê Ngọa Triều [Nhà Tiền Lê]Kế nhiệmLý Thái TôngThông tin chungSinh8 tháng 3 năm 974
Từ Sơn, lộ Bắc Giang , Đại Cồ ViệtMất31 tháng 3, 1028[1028-03-31] [54 tuổi]
Điện Long An, Thăng Long, Đại Cồ ViệtAn tángThọ LăngThê thiếpLập Giáo hoàng hậuTên thậtNiên hiệuTôn hiệuThụy hiệuMiếu hiệu
Lý Công Uẩn
Thuận Thiên [順天]
Phụng Thiên Chí Lý Ứng Vận Tự Tại Thánh Minh Long Hiện Duệ Văn Anh Vũ Sùng Nhân Quảng Hiếu Thiên Hạ Thái Bình Khâm Minh Quảng Trạch Chương Chiêu Vạn Bang Hiển Ứng Phù Cảm Uy Chấn Phiên Man Duệ Mưu Thần Trợ Thánh Trị Tắc Thiên Đạo Chính Hoàng đế [奉天至理應運自在聖明龍見睿文英武崇仁廣孝天下太平欽明光宅章昭萬邦顯應符感威震藩蠻睿謀神功聖治則天道政皇帝]
Thần Vũ Hoàng đế [神武皇帝]
Thái Tổ [太祖]
Triều đạiNhà LýThân phụHiển Khánh vươngThân mẫuMinh Đức Thái hậuTôn giáoPhật giáo

Xuất thân là một võ quan cao cấp dưới triều Nhà Tiền Lê, năm 1009, nhân khi vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê là Lê Long Đĩnh qua đời, con trai còn nhỏ, Lý Công Uẩn cùng lực lượng của Đào Cam Mộc và Vạn Hạnh cướp ngôi và tự phong làm hoàng đế. Trong thời kỳ trị vì của mình, ông dành nhiều thời gian để đàn áp các cuộc nổi dậy, vì cơ bản nước Đại Cồ Việt vẫn chưa thu phục được lòng tin của dân. Triều đình trung ương dần được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thành Đại La vào tháng 7 năm 1010 và thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển lâu dài của nhà Lý tồn tại 216 năm.

Sách Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư đều chép Lý Công Uẩn người ở Cổ Pháp, Bắc Giang [nay thuộc thành phố Từ Sơn, Bắc Ninh], mẹ họ Phạm.[1][2] Tuy nhiên, tên cha ông không được chép rõ, mà chỉ biết là sau khi ông lên ngôi đã truy tôn cha mình tước Hiển Khánh vương. Sách Đại Việt sử lược cũng chép ông có một người anh trai [sau được phong Vũ Uy vương] và một người em trai [sau phong Dực Thánh vương]. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép anh ông sau được phong làm Vũ Uy vương và một người chú được phong Vũ Đạo vương.[3] Theo sử ghi, Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất [tức ngày 8 tháng 3 năm 974].

Lúc 3 tuổi, mẹ của Lý Công Uẩn ẵm ông đến nhà Lý Khánh Văn, Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi. Ông từ nhỏ đã thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường. Lúc còn nhỏ đi học, nhà sư ở chùa Lục Tổ là Vạn Hạnh thấy, khen rằng: Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ. Lớn lên, không chăm việc sản nghiệp, chỉ học kinh sử qua loa, khẳng khái có chí lớn.[4]

Theo sách Việt sử tiêu án: Mẹ Lý Công Uẩn năm 20 tuổi nghèo hèn không có chồng, nương tựa người lão Sa môn ở chùa Ứng Thiên, làm việc thổi nấu, khi lửa tắt và bà đương ngủ lơ mơ, lão Sa môn ngẫu nhiên chạm phải, giật mình trở dậy rồi có thai mà sinh ra. Về sau, Lý Công Uẩn nương nhờ cửa Phật, Khánh Văn nuôi lớn, Vạn Hạnh dạy dỗ.[5]

Lý Công Uẩn lớn lên thời Lê Hoàn, ông theo giúp hoàng tử Lê Long Việt. Năm 1005, Lê Hoàn mất, các con tranh giành ngôi vua. Năm 1006, Lê Long Việt giành được ngôi vua, trở thành vua Lê Trung Tông. Nhưng chỉ được 3 ngày, Trung Tông bị em là Lê Long Đĩnh giết hại giành ngôi. Lúc đó các quan đều sợ hãi bỏ chạy, chỉ có Lý Công Uẩn đến ôm xác vua Lê Trung Tông [Tiền Lê] mà khóc.

Lê Long Đĩnh không những không trị tội mà khen Lý Công Uẩn là người trung nghĩa, tiếp tục trọng dụng ông, cho làm Tứ sương quân Phó Chỉ huy sứ, rồi sau đó thăng đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ.

Theo Ngọc phả các vua triều Lê ở Hà Nam và tư liệu tại các di tích ở Cố đô Hoa Lư – Ninh Bình, Lý Công Uẩn hàng năm theo Thiền sư Vạn Hạnh vào hầu vua Lê Đại Hành ở thành Hoa Lư. Công Uẩn được vua yêu, cho ở lại kinh thành học tập quân sự. Lê Hoàn lại gả con gái cả là công chúa Lê Thị Phất Ngân [sinh ra Lý Phật Mã] và đặc phong cho Công Uẩn làm Điện tiền cận vệ ở thành Hoa Lư. Dần dần, Công Uẩn thăng lên chức Điện tiền Chỉ huy sứ [chức chỉ dành cho hoàng tộc hoặc quốc thích]. Chính nhờ vậy mà về sau, Lý Công Uẩn đã đem ngôi vua về cho họ Lý.[6]

Xem thêm: Bài thơ sấm trên cây gạo làng Diên Uẩn

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thời vua Lê Long Đĩnh còn tại vị, ở hương Diên Uẩn [châu Cổ Pháp] có cây gạo bị sét đánh, có chữ trên ấy. Vị sư Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn rằng: Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nổi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may nghìn năm có một. Lý Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn.[7]

Cũng theo Toàn thư, có lần Lê Long Đĩnh ăn quả lê lại thấy hột lý, mới tin lời sấm ngữ, ngầm tìm người họ Lý giết đi, nhưng Lý Công Uẩn vẫn không bị hại. Theo An Nam chí lược, năm 1009, Lê Long Đĩnh chết, Thái tử Long Sạ còn bé, hai hoàng tử con Lê Đại Hành là Lê Minh Đề và Lê Minh Xưởng tranh cướp ngôi vua, bị Lý Công Uẩn giết chết.[8]. Toàn thư không chép việc tranh ngôi, chỉ chép Lý Công Uẩn cùng với Hữu Điện tiền Chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được đem 500 quân tùy long vào làm túc vệ. Khi ấy Chi hậu là Đào Cam Mộc dò biết Công Uẩn có muốn nhận việc truyền ngôi, mới nhân lúc vắng nói khích với Lý Công Uẩn về việc tiếm ngôi. Công Uẩn trong lòng thích lời nói đó nhưng còn ngờ Cam Mộc có mưu khác, mới giả cách mắng. Cam Mộc thong thả bảo Công Uẩn rằng: Tôi thấy thiên thời nhân sự như thế, cho nên mới dám phát ngôn. Nay ông lại muốn cáo giác tôi thì tôi không phải là người sợ chết. Lý Công Uẩn nói: Tôi đâu nỡ cáo giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết ráo, nên răn ông đó thôi. Hôm sau Đào Cam Mộc lại thuyết phục Lý Công Uẩn việc tiếm ngôi, Đào Cam Mộc bàn với Thái hậu phò lập Lý Công Uẩn lên làm vua[9].

 

Tượng đài Lý Thái Tổ tại trung tâm thành phố Bắc Ninh.

Trong sách Đại Việt sử ký tiền biên, sử gia Ngô Thì Sĩ có nêu ra việc dân gian thời sau đồn đoán rằng Lý Công Uẩn giết Lê Long Đĩnh để đoạt ngôi:[10]

Có người hỏi Khai Minh vương hung hãn bạo ngược, Lý Thái Tổ địa vị danh vọng ngày một cao, trong ngoài đều là tâm phúc, Lý Thái Tổ rất căm phẫn trước tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh vương, nhân lúc Khai Minh vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi giấu kín việc đó, nên sử không được chép. Nếu quả như vậy, cũng là đạo trời hay báo, cho nên chép phụ vào đây để làm răn.

— Đại Việt sử ký tiền biên - Ngô Thì Sĩ

Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế tháng 11, ngày Quý Sửu, năm Kỷ Dậu[11] [tức 21 tháng 11 năm 1009], đặt niên hiệu là Thuận Thiên, nghĩa là "theo ý trời". Ông phong cha là Hiển Khánh vương, mẹ là Minh Đức Thái hậu, chú là Vũ Đạo vương, anh ruột là Vũ Uy vương, em ruột là Dực Thánh vương. Ông lập sáu hoàng hậu, con trưởng ông là Lý Phật Mã được phong Khai Thiên vương lập làm Thái tử. Các con trai khác của ông cũng được phong vương. Đồng thời, con gái lớn của ông là An Quốc công chúa Lý Thiềm Hoa được gả cho Đào Cam Mộc. Đào Cam Mộc cũng được phong Nghĩa Tín hầu, còn những người khác vẫn giữ chức cũ. Một người con gái khác là Lĩnh Nam công chúa là Lý Bảo Hòa được gả cho động chủ Giáp Thừa Quý.

Xem thêm: Chiếu dời đô

 

Cố đô Hoa Lư, nơi núi non hiểm trở.

Thành Hoa Lư vốn là kinh đô của 2 triều đại Đinh và Tiền Lê, là một vị trí cố thủ tự nhiên giữa những những mỏm núi đá nằm bên rìa phía Đông Nam đồng bằng sông Hồng trong tỉnh Ninh Bình. Hoa Lư kiểm soát tuyến đường đất từ đồng bằng sông Hồng tới các tỉnh phía Nam. Nó cũng là tiền đồn của những tỉnh phía Nam nhìn ra đồng bằng sông Hồng.[12]. Lúc lên ngôi, Lý Thái Tổ cho rằng "Hoa Lư thành thì hẹp, đất thì thấp", muốn dời đô về Đại La [nay là Hà Nội], tức thành Tống Bình đời Đường - nơi mà Cao Biền sau khi đuổi quân Nam Chiếu đã xây dựng lại phủ trị của An Nam đô hộ phủ[13]. Nhà vua ra chiếu rằng:

Xưa kia nhà Thương đến vua Bàn Canh đã năm lần thiên đô, nhà Chu đến đời Thành Vương đã ba lần thiên đô, không phải là theo ý riêng một mình, là nghĩ đến kế muôn năm về sau. Nhà Đinh và Lê không theo lối cũ của Thương, Chu, cứ để kinh đô ở mãi nơi này, trẫm rất đau lòng. Duy có thành Đại La ở giữa khu vực của trời đất, có cái thế long, hổ vững bền, địa thế rộng và bằng phẳng, đất thì cao mà sáng sủa, rõ là khu vực phồn thịnh. Đã xét khắp đất Việt, chỉ có nơi ấy là thắng địa, là nơi đô hội thật là kinh đô của muôn đời sau.

— Chiếu dời đô

Sử chép rằng các quan đều nhất trí với nhà vua: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo".

Tháng 7 năm Thuận Thiên thứ nhất [1010] thì khởi sự dời đô. Khi thuyền mới đến đậu ở dưới thành, thấy có con rồng vàng hiện ra, nhân thế đặt tên là Thăng Long, liền lập nhiều cung điện, cộng 13 sở, xây thành lũy, sửa sang phủ khố; thăng châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, Bắc Giang gọi là Thiên Đức Giang, thành Hoa Lư gọi là phủ Tràng An, trong phủ Thiên Đức lập ra tám ngôi chùa, đều có lập bia ghi chép công đức.

Chính trị

 

Đồng xu do Lý Thái Tổ phát hành [trên cùng, bên phải]

 

Bản đồ Đại Việt thời nhà Lý. Đường chấm mờ là biên giới nước Việt Nam ngày nay

Thời vua Lý Thái Tổ, Đại Tống và Đại Việt có mối quan hệ hòa bình. Khi Lý Thái Tổ lên ngôi, ông sai Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống để kết hảo. Năm 1010, Tống Chân Tông phong Lý Thái Tổ chức Giao Chỉ quận vương lĩnh Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, sau lại gia phong làm Nam Bình vương vào năm 1017. Các vương quốc láng giềng như Chiêm Thành và Chân Lạp cũng thường sang triều cống, cho nên việc bang giao thời bấy giờ khá yên trị. Tuy nhiên, năm 1020, Lý Thái Tổ phải sai Khai Thiên vương Lý Phật Mã sang đánh Chiêm Thành. Các bộ chính sử như Đại Việt Sử ký Toàn thư, Đại Việt sử lược chép là quân Việt thắng; song từ năm này đến khi Lý Thái Tông chinh phạt Chiêm Thành lần hai năm 1044, sử sách không ghi lại bất kỳ một lần nào sứ Chiêm sang cống. Năm 1044, Lý Thái Tông có nói với triều thần: "Tiên đế mất đi, đến nay đã 16 năm rồi, mà Chiêm Thành chưa từng sai một sứ giả nào sang cống".[14]

Vua Lý Thái Tổ đổi phép cũ của nhà Tiền Lê, chia nước ra làm 24 lộ; chia nước làm hai phần là kinh và trại, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại, xứ từ Thanh Hóa trở ra là kinh. Sách Cương mục và Toàn thư chỉ ghi tên 12 lộ là: Thiên Trường lộ, Quốc Oai lộ, Hải Đông lộ, Kiến Xương lộ, Khoái lộ, Hoàng Giang lộ, Long Hưng lộ, Bắc Giang lộ, Trường Yên lộ, Hồng lộ, Thanh Hóa lộ, Diễn Châu lộ. Theo sách Lãnh Nam ngoại đáp, Đại Việt thời Lý chia làm 4 phủ, 13 châu và 3 trại. Phủ là phủ Đô Hộ, phủ Đại Thông, phủ Thanh Hóa, phủ Phú Lương; châu là châu Vĩnh An, châu Vĩnh Thái, châu Vạn Xuân, châu Phong Đạo, châu Thái Bình, châu Thanh Hóa, châu Nghệ An, châu Già Phong, châu Trà Lô, châu Yên Phong, châu Tô, châu Mậu, châu Lạng; trại là trại Hòa Ninh, trại Đại Bàn, trại Tân Yên[15].

Quan chế nhà Lý kế thừa quan chế nhà Tiền Lê, hai ban văn-võ có 9 phẩm, lấy 3 chức thái: thái sư, thái phó, thái bảo; 3 chức thiếu: thiếu sư, thiếu phó, thiểu bảo; cùng thái úy, thiếu úy và nội ngoại hành điện đô tri sự, kiểm hiệu bình chương sự làm chức trọng yếu của triều đình.[16] Ngoài quan ngoài triều đình có các chức tri phủ và phán phủ cai trị một phủ và chức tri châu cai trị một châu. Ngoài ra có những châu bậc dưới mà người đứng đầu là thủ lĩnh.[17]

Năm 1013, triều đình định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan Ải quan; thuế sừng tê giác, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả.[18] Lúc mới lên ngôi, nhà vua miễn thuế cho nhân dân trong vòng 3 năm. Theo Ngô Thì Sĩ, nhà Lý cốt chăm nghề nông cho nước giàu, trong 6 thứ thuế chỉ thu 4 thứ, 2 hạng khoan thu.[19]

Quân sự

Tháng 2 năm 1011 [năm Thuận Thiên thứ hai], vua Lý Thái Tổ mang sáu quân đi phạt quân Cử Long ở Ái Châu. Quân Cử Long vốn rất lợi hại, hai triều Đinh-Lê đều chưa dẹp yên được. Đến đây, Lý Thái Tổ tiêu diệt bộ lạc Cử Long, bắt người cầm đầu giải về. Tháng 10 năm 1013, ông thân chinh đánh quân Man ở châu Vị Long, lại thắng trận.

Năm 1012, Lý Thái Tổ bình định vùng đất Diễn Châu, vốn vẫn còn nằm trong tay của Lê Long Tung nhà Tiền Lê. Khi về đến Vũng Biện thì trời tối đen, gió sấm rất lớn. Thấy vậy, ông đốt hương và khấn trời: "Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét". Sau khi khấn, trời đất quang đãng trở lại.[20]

Năm ấy, người Đại Lý [còn gọi là Nam Chiếu] lấn sang quá cột đồng do Mã Viện dựng làm biên giới giữa nước Tống và Đại Việt, đến bến Kim Hoa và châu Vị Long để buôn bán. Lý Thái Tổ sai quân bắt được người Đại Lý và hơn 1 vạn con ngựa.[21]

Mùa đông, tháng 10, năm 1013 châu Vị Long làm phản, hùa theo người Đại Lý. Vua Lý Thái Tổ mang quân đánh, thủ lĩnh là Hà Án Tuấn sợ, đem đồ đảng trốn vào rừng núi.[21]

Năm 1014, vua Đại Lý sai hai tướng Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí đem 20 vạn quân đánh nước Việt. Quân Đại Lý tiến lên đóng ở bến Kim Hoa, dũng trại Ngũ Hoa. Sau khi châu mục châu Bình Lâm là Hoàng Ân Vinh thông báo, Lý Thái Tổ sai Dực Thánh vương đánh bến Kim Hoa. Quân Việt đánh tan quân Đại Lý, "chém vạn đầu giặc, bắt được quân sĩ và ngựa nhiều vô số" [nguyên văn trong Đại Việt sử lược]. Sau chiến thắng, Lý Thái Tổ hạ lệnh cho viên ngoại lang Phùng Chân, Lý Hạc mang 100 ngựa chiến của Đại Lý biếu tặng vua Tống. Triều đình Tống đối đãi các sứ thần rất hậu. Cùng năm đó, Thái Tổ đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh.[22]

Tháng 12 năm Canh Thân [1020], Lý Thái Tổ sai Khai Thiên vương Lý Phật Mã và Đào Thạc Phụ đem quân đi đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính, thẳng đến núi Long Tỵ [nay thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình], chém được tướng Chiêm là Bố Linh tại trận, người Chiêm chết đến quá nửa.[21]

Năm 1022, thổ dân Đại Nguyên Lịch - một sắc dân Mán cư trú giữa trại Như Hồng và trấn Triều Dương [Đại Tống] - sang đánh phá biên ải Việt-Tống.[23] Lý Thái Tổ ra lệnh cho Dực Thánh vương đánh dẹp Đại Nguyên Lịch, quân đánh đến châu Như Hồng trong đất Tống, đốt kho tàng, bắt nhiều dân và gia súc rồi kéo về. Sử gia Trung Quốc gốc Việt Lê Tắc đã thuật lại sự việc này trong sách An Nam chí lược rằng:[21]

"Tháng 12, Chuyển vận sứ Quảng Tây Cao Huệ Liên dâng thơ nói Giao Châu vào cướp trại Như Hồng thuộc châu Khâm, bắt người và súc vật rất nhiều. Vua [Tống Chân Tông] xuống chiếu khiến Huệ Liên tư điệp văn cho Giao Châu và sai sứ theo đòi lại. Nguyên trước đây có dân Mường là Trương Phố, lánh tội chạy đến đầu ngụ, quan cai trị Khâm Châu là Mục Trọng vời vào, đi đến nửa đường lại ngăn không cho vào. Đô Tuần Kiểm Tàng Tự bèn khiến trại Như Hồng khao đãi trâu rượu. Giao Châu dò biết được việc ấy, bèn nhân đuổi bắt dân Mường, đánh cướp luôn trại Như Hồng. Vua [Tống Chân Tông] xuống chiếu thư bảo các châu từ nay không được dụ vời quân man rợ và khao đãi yến tiệc, đến đỗi sinh sự."

Năm 1024, Lý Thái Tổ sai Thái tử Lý Phật Mã đem quân đánh châu Phong Luân, còn Khai Quốc vương thì đánh châu Đô Kim. Cùng năm đó, nhà vua tu sửa thành Thăng Long.[21][24]

Năm 1028, Thái tử lại được lệnh đánh châu Thất Nguyên, Đông Chinh vương cũng đi đánh châu Văn.[25]

Tôn giáo

 

Tượng thờ vua Lý Thái Tổ ở chùa Kiến Sơ, Gia Lâm, Hà Nội.

Lý Thái Tổ vì xuất thân từ chùa chiền, nên sau khi lên ngôi rất hậu đãi giới tăng lữ. Vào năm 1010, sau khi đã dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, việc đầu tiên ông làm là liền xuất ra 2 vạn quan để làm chùa ở phủ Thiên Đức [tức Cổ Pháp].[26]

Tháng 12 năm Canh Tuất [năm 1010 Dương lịch], Lý Thái Tổ sai sứ sang nước Tống để thỉnh kinh điển Phật giáo. Tống Chân Tông chấp thuận, trao cho vua Lý kinh Địa Tạng cùng với chữ ngự bút do chính tay vua Tống viết.[27]

Cùng năm, sau khi củng cố xây dựng Hoàng thành, ông lại chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía nam dựng chùa Thắng Nghiêm.

Tháng 6 năm Mậu Ngọ [1018], Lý Thái Tổ lại sai viên ngoại lang Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang nước Đại Tống thỉnh Tam tạng kinh đem về để vào kho Đại Hưng.[28][29]

Tháng 9 năm Giáp Tý [1024], Thái Tổ sai dựng chùa Chân Giáo trong nội đô Thăng Long, để hoàng đế lui tới nghe kinh pháp.[30]

Về việc này, Lê Văn Hưu nhận xét: ...Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể.

Theo Đại Việt sử lược, năm 1028 [tức năm Thuận Thiên thứ 19], sức khỏe Lý Thái Tổ đã không được tốt, thường xuyên đau yếu. Ngày 31 tháng 3 năm ấy, Thái Tổ qua đời ở điện Long An, ở ngôi 19 năm, hưởng thọ 54 tuổi.

Khi Lý Thái Tổ vừa qua đời, việc tế táng lại chưa hoàn tất, thì ba vương gia Vũ Đức vương, Đông Chinh vương và Dực Thánh vương cùng quân sĩ vây hãm thành, nhằm mục đích cướp ngôi Thái tử Lý Phật Mã[29]. Thái tử đem quân vào thành, quyết một trận với 3 vương.

Khi quân của Thái tử và quân các vương đối trận, thì Võ vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu rút gươm ra chỉ vào Vũ Đức vương mà bảo rằng: "Các người dòm ngó ngôi cao, khi dễ tự quân, trên quên ơn tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này!". Nói xong chạy xông vào chém Vũ Đức vương ở trận tiền. Quân các vương trông thấy sợ hãi bỏ chạy cả. Dực Thánh vương và Đông Chinh vương cũng phải chạy trốn, về sau xin ra hàng, được tha cả. Thái tử Lý Phật Mã lên nối ngôi, tức là Lý Thái Tông.

Lý Thái Tông kế vị, táng Lý Công Uẩn ở Thọ Lăng, phủ Thiên Đức, truy tôn miếu hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu là Thần Vũ Hoàng đế.

  • Cha: Hiển Khánh vương.
  • Mẹ: Minh Đức Thái hậu Phạm Thị Ngà.
  • Anh em:
  1. Vũ Uy vương.
  2. Dực Thánh vương, có sách ghi là con trai.[31]
  • Hậu phi: Thái Tổ lập 9 hoàng hậu, trong đó có một số người được sử ghi danh hiệu:[32]
  1. Lập Giáo hoàng hậu: sử chép là vợ cả, theo dã sử tên húy là Lê Thị Phất Ngân, con của Lê Hoàn, là mẹ của Thái tử Lý Phật Mã.[33][cần dẫn nguồn] Sau được Lý Thái Tông phong Linh Hiển Hoàng thái hậu.
  2. Chu Ái Vân phu nhân 婤爱雲夫人
  3. Tá Quốc Phu nhân
  4. Lập Nguyên Phu nhân

Còn lại đều không rõ tên họ.

  • Con cái: Ít nhất 7 hoàng tử, 13 công chúa.
  1. Khai Thiên vương Lý Phật Mã, năm 1009 phong Hoàng thái tử. Mẹ là Linh Hiển Hoàng thái hậu.
  2. Khai Quốc vương Lý Bồ, phong năm 1013, ở phủ Trường Yên.
  3. Đông Chinh vương Lý Lực, phong năm 1018.
  4. Vũ Đức vương, không rõ thân thế, theo quan điểm của Trần Trọng Kim là con Lý Thái Tổ.
  5. Uy Minh hầu Lý Nhật Quang, còn có tên Lý Hoảng. Theo Việt điện u linh tập, mẹ là Linh Hiển Hoàng thái hậu.
  6. Công chúa An Quốc, gả cho Đào Cam Mộc.
  7. Lĩnh Nam Công chúa [Lý Bảo Hòa], gả cho Thân Thừa Quý

 

Tượng Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ở đền Lý Bát Đế.

Sử gia Lê Văn Hưu bình trong Đại Việt sử ký:

Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?

— Sách này không còn, dẫn lại theo Đại Việt sử ký toàn thư

Có người hỏi: Lê Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lý Thái Tổ hơn ư? Đáp: Hơn thì không biết, chỉ thấy đức của họ Lý dày hơn họ Lê, vì thế nên nói theo họ Lý.

— Sách này không còn, dẫn lại theo Đại Việt sử ký toàn thư[34]

Sử thần Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư bình rằng:

Lý Thái Tổ dấy lên, trời mở điềm lành hiện ra ở vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về, lại vừa sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua thì vốn có tiếng khoan nhân, trời thường tìm chủ cho dân, dân theo về người có đức, nếu bỏ vua thì còn biết theo ai! Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc đế vương. Duy có việc ham thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém.

— Đại Việt sử ký toàn thư

Sử thần Lê Tung, tác giả bài Đại Việt thông giám tổng luận thì nhận xét:[35]

Lý Thái Tổ nhân Ngọa Triều thất đức, hiệp điềm tốt sét đánh thành chữ, ứng mệnh trời, thuận lòng người, thừa thời mở vận; có đại độ khoan nhân, có quy mô xa rộng, dời đô định vạc, kính trời yêu dân, tô ruộng có lệnh tha, phú dịch có mức độ. Bắc Nam thông hiếu, thiên hạ bình yên. Song thánh học chẳng nghe, nho phong chưa thịnh, tăng ni chiếm nửa dân gian, chùa chiền dựng đầy thiên hạ, không phải là đạo sáng nghiệp truyền dòng vậy.

— Lê Tung

Khâm định Việt sử Thông giám cương mục nhận định:

Nhà Lý được nước, cũng không phải chính nghĩa cho lắm, nhưng đương buổi Lê Ngọa Triều, lòng người lìa tan, sinh dân vô chủ, không về với Công Uẩn còn biết theo ai?

— Khâm định Việt sử Thông giám cương mục[36]

Lời của sử thần chép trong sách Việt sử tiêu án:

Vua Lý Thái Tổ sinh trưởng nhờ cửa Phật, Khánh Vân nuôi lớn, Vạn Hạnh dạy dỗ, thuyết nhân quả ăn sâu ở trong lòng, cho nên khi mới kiến quốc, đã sáng tạo nhiều chùa, cấp điện độ tăng chúng, muốn đưa cả thế giới vào nước Phật, bất luận hiền ngu muốn cho qui Phật, đến đời sau Nhà Lý mới khởi lên ngôi chùa cao sát mây, lập nên cột chùa bằng đá cao vót, lấy sự thờ Phật làm việc thường phải có của một nước [lập hơn 300 ngôi chùa, đúc quả chuông nặng đến một vạn hai nghìn cân đồng]. Khi khánh thành chùa thì mở hội, xá các tội nhân; một nhà sư tự thiêu mà cũng tạ ơn Phật, bụt mọc ở chùa Pháp Vân mà lập nên chùa tự dối mình và dối đến người khác, trên dưới như điên như dại, khiến cho ảo thuật của sư Đại Điên dám hoành hành ở trong cung vua, tà thai của Nguyễn Bông đầu thai làm con thừa tự của nước; đến nỗi vua Huệ Tôn bỏ nước cho con gái nhỏ mà xuất gia đầu Phật; vì nhà sư mà hưng quốc, lại vì nhà sư mà mất nước, Phật cũng không đem chén nước công đức mà độ cho vua cho nước được, phải chăng tại vì vua Thái Tổ, cho nên đến nỗi thế?

— Việt sử tiêu án[37]

Theo K.W Taylor:

Lý Công Uẩn, một người được đỡ đầu bởi các thế lực tu viện rõ ràng đã chế ngự trung tâm văn hóa và hành chánh cổ xưa tại đồng bằng sông Hồng, phất lên từ Hoa Lư và trở thành vị chỉ huy thị vệ hoàng cung và, trong năm 1009, sau sự từ trần của người kế ngôi cũng là con trai thất nhân tâm của Lê Hoàn, đã được lập làm vua với sự đồng tình của mọi người. Lý Công Uẩn [được nhớ đến sau khi mất với miếu hiệu Lý Thái Tổ] đã từ bỏ Hoa Lư và đặt kinh đô của ông tại trung tâm hành chính cũ từ thời lệ thuộc nhà Đường [Hà Nội ngày nay], đặt lại tên là Thăng Long.

— K. W. Taylor

Lý Thái Tổ và các vị vua nhà Lý được thờ ở đền Đô, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nơi được cho là quê hương của nhà Lý. Gần đền Đô là lăng mộ các hoàng đế nhà Lý nằm rải rác trên địa bàn phường Đình Bảng.

Có một ngôi đền thờ riêng vua Lý Thái Tổ, hoàng hậu Lê Thị Phất Ngân và Lý Thái Tông được xây dựng do Hà Nội kết hợp với Ninh Bình là Đền Vua Lý Thái Tổ tại khu di tích Cố đô Hoa Lư. Tại khu vực động Hoa Lư – quê hương của Thái hậu Dương Vân Nga và cũng là căn cứ ban đầu của Đinh Bộ Lĩnh có các di tích đình Ngọc Nhị, đình Viến thờ vua Đinh và Thái hậu cũng có bài vị phối thờ Hoàng hậu Lê Thị Phất Ngân và Lý Thái Tổ với giai thoại hai người từng về thăm viếng nơi này.

Nhiều địa phương lấy tên ông đặt cho các đường phố như: đường Lý Thái Tổ ở các thành phố: Bắc Ninh, Hà Nội, Huế, Ninh Bình, Thái Bình, Vĩnh Yên, Đà Nẵng, Long Xuyên, Thành phố Hồ Chí Minh,... hay đường Lý Công Uẩn ở các thành phố: Lào Cai, Cao Lãnh, Mỹ Tho, Móng Cái,...

Tại Hà Nội và Bắc Ninh đều dựng tượng đài ông.

Năm 2004, một tượng đài Lý Thái Tổ được xây dựng tại trục đ­ường Đinh Tiên Hoàng thuộc khu vực vườn hoa Chí Linh, Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội theo mẫu của nhà điêu khắc Vi Thị Hoa, bằng đồng [nặng 14 tấn, cao 3,3 m] thuộc dạng công trình chào mừng kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội.[38] Bà Vi Thị Hoa cho biết là không có tài liệu vật thể nào về khuôn mặt, trang phục của Lý Thái Tổ và nói: "Chúng tôi sáng tác mang tính ước lệ".

Tháng 8 năm 2011, chiếc tàu hộ tống mang tên lửa lớp Gepard 3.9 [Project 11661E] thứ hai của Hải quân Nhân dân Việt Nam – HQ012 – được đặt tên Lý Thái Tổ.

Năm Tác phẩm Diễn viên
2010 Khát vọng Thăng Long Quách Ngọc Ngoan
Về đất Thăng Long Lý Hùng
Huyền sử thiên đô Công Dũng
2011 Lý Công Uẩn: Đường tới thành Thăng Long Phạm Tiến Lộc
Lưu Tiến Đạt
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Lý Thái Tổ.
  • Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục Chính biên Quyển thứ I Lưu trữ 2009-03-31 tại Wayback Machine
  • ĐVSKTT quyển II - Kỷ Nhà Lý
  • Việt Nam sử lược, Chương IV: Nhà Lý [1010 - 1225] Lưu trữ 2009-07-18 tại Wayback Machine, tác giả Trần Trọng Kim.
  • Đại Việt Sử ký Toàn thư, Kỷ nhà Lý
  • Đại Việt sử lược, quyển nhị: vua Thái Tổ[liên kết hỏng]
  • Ngô Thì Sĩ [2011], Đại Việt sử ký tiền biên, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin.
  • Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh, Nhà Xuất bản Hồng Đức, 2016.
  • Việt sử tiêu án, Nhà Xuất bản Văn Sử, 1991.
  • Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, tập 2, Nhà Xuất bản Giáo dục, 2012.
  • Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, Bộ Giáo dục Trung tâm Học liệu xuất bản.

  1. ^ Đại Việt sử lược, quyển Trung, Kỷ Nhà Nguyễn. Thái Tổ.
  2. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ Nhà Lý. Thái Tổ Hoàng Đế.
  3. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ Nhà Lê. Ngọa Triều Hoàng Đế.
  4. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, 1992, Kỷ nhà Lý.
  5. ^ Việt sử tiêu án, Nhà Xuất bản Văn Sử, 1991, Nhà Lý.
  6. ^ NGỌC PHẢ CÁC VUA TRIỀU LÊ, Trần Bá Chí, đăng trên Báo Hán Nôm của VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM - VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM, năm 2010.
  7. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, 1993, Kỷ Nhà Lê.
  8. ^ An Nam chí lược: Năm Đại Trung Tường Phù thứ 3, Chí Trung [tức Long Đĩnh] mất, con còn nhỏ, em là Minh Đề, Minh Sưởng tranh ngôi. Công Uẩn đuổi và giết đi, tự lĩnh việc Giao Châu, xưng là An Nam Tĩnh Hải quân quyền Lưu hậu.
  9. ^ Việt sử tiêu án, Nhà Xuất bản Văn Sử, 1991, Khai Minh Vương.
  10. ^ Ngô Thì Sĩ, sách đã dẫn, tr. 223.
  11. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ Toàn thư, Quyển 1, Kỷ Nhà Lê, Mục Ngọa Triều Hoàng đế.
  12. ^ K. W. Taylor, Looking Behind The Vietnamese Annals, Lý Phật Mã [1028-54] and Lý Nhật Tôn [1054-72] In The Việt Sử Lược and The Toàn Thư, The Vietnam Forum, A Review of Vietnamese Culture and Society, Yale Center For international and Area Studies, no. 7, Winter-Spring 1986, các trang 47-68.
  13. ^ Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà Xuất bản Hồng Đức, 2016, trang 141.
  14. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, 1993, trang 99.
  15. ^ Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà Xuất bản Hồng Đức, trang 141.
  16. ^ Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà Xuất bản Giáo dục, 2012, trang 528.
  17. ^ Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà Xuất bản Hồng Đức, trang 145.
  18. ^ Việt sử tiêu án, Nhà Xuất bản Văn Sử, 1991, Thái Tổ Hoàng đế, trang 43.
  19. ^ Việt sử tiêu án, Kỷ Nhà Lý, Thái Tổ Hoàng đế, Nhà Xuất bản Văn Sử, 1991.
  20. ^ Đại Việt sử ký toàn thư.
  21. ^ a b c d e Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, 1993, Kỷ Nhà Lý, Thái Tổ Hoàng đế.
  22. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, 1993, trang 83.
  23. ^ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, 1998, trang 112.
  24. ^ Đại Việt sử lược, Quyển nhị: Vua Thái Tổ, trang 38.
  25. ^ Đại Việt sử lược: Quyển nhị: Vua Thái Tổ[liên kết hỏng]
  26. ^ ĐVSKTT: Mùa thu, tháng 7, 1010, xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan, thuê thợ làm chùa ở phủ Thiên Đức, tất cả tám sở, đều dựng bia ghi công.
  27. ^ Lê Tắc, An Nam chí lược, 1961, trang 101.
  28. ^ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, 1998, trang 111.
  29. ^ a b “Việt Nam sử lược, Chương IV: Nhà Lý [1010 - 1225]”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2010.
  30. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, 1993, trang 86.
  31. ^ ĐVSKTT ghi: Soát lại việc Lý Công Uẩn phong tước ghi tại đây, ngờ Toàn thư chép sót về người được phong là Dực Thánh vương. Đại Việt sử lược [q.2, tờ 2b] ghi vua phong "cho anh làm Vũ Uy vơng, phong cho em làm Dực Thánh vương". Cương mục [CB2, 8a] không thấy dẫn Đại Việt sử lược, nhưng dẫn Nam Thiên trung nghĩa lục [của Phạm Phi Kiến] nói Dực Thánh Vương là con thứ của Lý Thái Tổ. Phối hợp cả Toàn thư ghi tại đây là Đại Việt sử lược, ngờ Cương mục chú nhầm.
  32. ^ Lý Thái Tổ có đến… 9 bà Hoàng hậu Lưu trữ 2011-06-11 tại Wayback Machine, PV - Báo Phụ nữ, ngày 06/06/2011.
  33. ^ Bí ẩn người vợ được Lý Công Uẩn đối đãi đặc biệt
  34. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ, Kỷ nhà Lê, Đại Hành Hoàng đế
  35. ^ Lê Tung. Việt giám thông khảo tổng luận. Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm. tr. 10b-11a.
  36. ^ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Chính biên, quyển II
  37. ^ Việt sử tiêu án, Nhà Xuất bản Văn Sử, 1991, Kỷ Nhà Lý, Thái Tổ Hoàng đế.
  38. ^ Khó khởi công xây dựng tượng đài Lý Thái Tổ vào dịp 10/10

  • Lý Thái Tổ tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Ly Thai To [Vietnamese emperor] tại Encyclopædia Britannica [tiếng Anh]
  • Lễ dâng hương Vua Lý Thái Tổ trong đêm giao thừa Việt Chiến, báo Thanh Niên 12:17 AM - 06/02/2010 lưu 7/2/2010
  • Khởi công xây dựng tượng đài Lý Thái Tổ Việt Anh. Vnexpress. 17/8/2004 | 09:08 GMT+7

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Lý_Thái_Tổ&oldid=68515953”

Video liên quan

Chủ Đề