Ngôn ngữ của philippin là gì

Vị trí
Quốc kỳ
Thông tin cơ bản
Thủ đô Manila
Chính phủ Cộng hòa
Tiền tệ Philippine peso [₱, PHP]
Diện tích tổng: 300.000 km2
nước: 1.830 km2
đất: 298.170 km2
Dân số 91.983.000 [2009]
Ngôn ngữ Tiếng Anh và Filipino là hai ngôn ngữ chính. Có khoảng 8 ngôn ngữ chính khác, 76 đến 78 nhóm ngôn ngữ chính, với hơn 170 ngôn ngữ riêng biệt. Ngôn ngữ khác gồm có Tây Ban Nha và Ả Rập
Tôn giáo Christianity 91% [Công giáo La Mã 82%, Protestant 9%], Islam 5%, Buddhism 3% and khác 1%.
Hệ thống điện 220V 60Hz [in Baguio, 110V]
Mã số điện thoại +63
Internet TLD .ph
Múi giờ UTC +8
Khẩn cấp 117

Philippines cũng viết Philippine; phiên âm tiếng Việt: Phi-líp-pin[3], Hán Việt: Phi Luật Tân] tên chính thức: Cộng hoà Philippines [tiếng Philippines: Repúbliká ng̃ Pilipinas], là một nước ở Đông Nam Á có thủ đô là Manila. Nước này trải dài 1.210 kilômét [750 dặm] từ lục địa châu Á và gồm 7.107 hòn đảo được gọi là Quần đảo Philippines, gần 700 đảo có người ở.

Philippines cùng với Đông Timor là hai nước tại Châu Á có cộng đồng Công giáo La Mã chiếm đa số dân và là một trong những nước có mức độ tây phương hoá cao, một sự hoà trộn độc nhất giữa Đông và Tây. Tây Ban Nha và Hoa Kỳ có lẽ là những nước có ảnh hưởng văn hoá lớn nhất tới nước này, bởi vì quần đảo Philippines từng là thuộc địa của Tây Ban Nha trong hơn 350 năm và là thuộc địa của Hoa Kỳ trong gần 50 năm. Tuy hầu hết diện tích vẫn là nông nghiệp, Philippines là một địa chỉ quan trọng cung cấp nguồn outsourcing và là một nhà xuất khẩu sản phẩm điện tử và nhân công. Số tiền người Philippine ở nước ngoài chuyển về chiếm một phần quan trọng trong Tổng sản phẩm quốc nội nước này. Tên nước này có nguồn gốc từ việc Ruy López de Villalobos đặt tên hai hòn đảo Samar và Leyte là Las Islas Filipinas theo tên vua Philip II của Tây Ban Nha trong chuyến viễn chinh không thành công của ông năm 1543. Quần đảo từng được gọi theo nhiều cái tên như Đông Ấn Tây Ban Nha, Nueva Castilla và Quần đảo San Lázaro. Cuối cùng, cái tên Filipinas được dùng để chỉ toàn bộ quần đảo.

Lịch sửSửa đổi

Những bằng chứng khảo cổ học và cổ sinh vật học cho thấy loài người hiện đại [homo sapiens] đã hiện diện ở Palawan khoảng 50.000 năm trước. Những dân cư đó được gọi là người Tabon. Ở Thời đại đồ sắt, những người dân thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo từ phía Nam Trung Quốc và Đài Loan đã đi qua những chiếc cầu lục địa tới định cư ở Philippines. Những nhà buôn người Trung Quốc đã tới đây vào thế kỷ thứ 8.

Nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha, Ferdinand Magellan lần đầu đặt chân lên quần đảo năm 1521. Ông trở nên thân thiện với đa số những vị thủ lĩnh địa phương và tuyên truyền để họ theo Công giáo La Mã. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều cải đạo. Magellan đã bị giết và những thuỷ thủ người Tây Ban Nha đã bị Lapu-Lapu, một trong những vị thủ lĩnh kiên quyết bảo vệ quyền theo tôn giáo bản địa, đánh bại. Một trong những chiếc tàu của Magellan, chiếc Victoria, quay trở về Tây Ban Nha mang theo tin tức về vùng đất mới. Ngày 27 tháng 4 năm 1565, Miguel López de Legazpi, một người chinh phục Tây Ban Nha, và 500 binh sĩ vũ trang tới Cebu và lập ra khu định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha trên quần đảo. Quân đội Tây Ban Nha chiến đấu chống những nhóm cướp biển Trung Quốc, và những lực lượng Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Hà Lan và Đế quốc Anh, tất cả đều có quyền lợi ở Philippines.

Tân Tây Ban Nha [thông qua Mexico] cai trị Philippines cho tới khi Mexico độc lập. Một con đường thương mại dùng thương thuyền Manila hay các thương thuyền theo đường Manila-Acapulco đã bắt đầu phát triển từ cuối thế kỷ 16. Thời kỳ cai trị Philippines của Tây Ban Nha bị gián đoạn một thời gian ngắn năm 1762, khi quân đội Anh tấn công và chiếm quần đảo để trả đũa việc Tây Ban Nha tham gia vào cuộc Chiến tranh bảy năm. Hiệp ước Paris [1763] khôi phục sự cai trị của người Tây Ban Nha và quân đội Anh rút đi năm 1764. Giai đoạn cai trị ngắn của người Anh đã làm Tây Ban Nha suy yếu nhiều về quyền lực.

Năm 1781, Tổng toàn quyền José Basco y Vargas lập ra Hội Kinh tế của những Người bạn của Quốc gia. Lúc ấy Philippines đang nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Tây Ban Nha. Những phát triển bên trong và bên ngoài đất nước đã mang lại nhiều tư tưởng mới cho người Philippine. Việc khai trương Kênh đào Suez năm 1869 đã làm giảm thời gian đi lại giữa hai nước. Điều này làm cho ilustrados, tầng lớp trí thức Philippines bắt đầu xuất hiện, bởi vì nhiều thanh niên Philippines có thể sang học tại châu Âu.

Tổ chức Katipunan được Andrés Bonifacio thành lập. Đó là một hội kín với mục đích duy nhất là lật đổ chế độ cai trị của người Tây Ban Nha ở Philippines. Tuyên bố về một Katipunero đã dẫn tới cuộc Cách mạng Philippines năm [1896–1898]. Rizal dính líu đến sự bùng nổ của cuộc cách mạng và bị xử tử vì tội phản bội [xem sedition] năm 1896. Katipunan chia rẽ thành hai nhóm, Magdiwang do Andrés Bonifacio lãnh đạo và Magdalo do Emilio Aguinaldo lãnh đạo. Xung đột giữa hai nhóm cách mạng lên tới cực điểm khi Aguinaldo cũng tử hình Bonifacio vì tội phản bội. Cuộc cách mạng chấm dứt với một sự ngừng bắn theo Công ước Biak na Bato và những nhà cách mạng bị trục xuất sang Hồng Kông.

Hoa Kỳ và Tây Ban Nha bắt đầu lao vào cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha - Mỹ năm 1898. Aguinaldo lúc ấy quay lại lôi kéo người Philippine và hứa hẹn mang lại độc lập cho đất nước giống như điều Mỹ đã thực hiện đối với Cuba, là nước đã tự lực chiến đấu để giành lại độc lập từ tay người Tây Ban Nha. Vì thế, ngày 12 tháng 6 năm 1898, với thắng lợi đã gần nắm chắc trong tay, Aguinaldo tuyên bố nền độc lập của Philippines tại Kawit, Cavite. Tuy nhiên, trận đánh Manila giữa Tây Ban Nha và Mỹ hoá ra lại là nỗ lực để loại trừ người Philippine khỏi vị trí kiểm soát Manila. Tây Ban Nha và Mỹ bỏ mặc đại diện của Philippines là Felipe Agoncillo trong những cuộc đàm phán để dẫn tới Hiệp ước Paris 1898. Trong những cuộc thương lượng, Tây Ban Nha buộc phải trao lại Guam, Philippines và Puerto Rico cho Hoa Kỳ để đổi lấy US$ 20.000.000 khoản tiền mà sau này người Mỹ gọi là "quà tặng" cho Tây Ban Nha. Cuộc nổi dậy đầu tiên của Cộng hoà Philippines chống lại sự chiếm đóng của Mỹ dẫn tới Chiến tranh Philippines-Mỹ [lúc ấy cũng được gọi trong các hồ sơ của Chính phủ Mỹ và một số người Mỹ là "Cuộc nổi dậy Philippines] [1899–1913].

Dần dần hòn đảo hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của Mỹ và được tổ chức như một vùng lãnh thổ Mỹ. Năm 1935, quy chế của họ được tăng lên thành một nước trong khối thịnh vượng chung của Mỹ, và nhiều kế hoạch được đưa ra nhằm trao lại độc lập cho họ trong thập kỷ sau đó. Cuối cùng, Philippines được trao lại độc lập ngày 4 tháng 7 năm 1946, thậm chí sau khi Nhật Bản đã tấn công và chiếm quần đảo này trong Thế chiến thứ hai, gây ra tình trạng mà một số người gọi là sự chậm trễ trong việc trao lại độc lập, dù sao cách gọi này không bao giờ được sử dụng trong chính trị Mỹ và Philippines.

Từ năm 1946, Philippines phải đối mặt với tình trạng mất thăng bằng kinh tế và chính trị. Hukbalahap [tổ chức du kích thành thị chiến đấu chống lại Nhật Bản hay HUKbong ng BAyan LAban sa HAPon Philippine trong Thế chiến thứ hai], quay sang đi theo ý thức hệ cộng sản. Họ được nhiều nông dân ủng hộ khi đưa ra những hứa hẹn về cải cách đất đai. Họ được tổ chức bí mật và tung ra các chiến dịch xúi dục nổi loạn chống chính phủ và các lực lượng chính phủ, tiến hành các hành động khủng bố, gồm cả bắt cóc, thảm sát, ám sát, hãm hiếp và tống tiền. Họ đe doạ những vùng nông thôn, và sau đó là cả thủ đô, Thành phố Quezon, và Manila trong thập niên 1950. Cuối cùng mối đe doạ này cũng chấm dứt khi Huk supremo Luis Taruc đầu hàng một nhà báo trẻ Benigno Aquino Jr. [sau này được bầu làm Thượng Nghị sĩ, cha của Tổng thống Benigno đương nhiệm], và Bộ trưởng quốc phòng Ramón Magsaysay, người sau này trở thành Tổng thống.

Cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 là thời gian nổi lên của các phong trào hành động sinh viên và những cuộc biểu tình chống Mỹ. Một hội nghị lập hiến gồm những phái đoàn được bầu ra đã phác thảo một hiến pháp mới với mục tiêu thay thế cho hiến pháp khối thịnh vượng chung do Mỹ đề xướng năm 1935 một khi cuộc trưng cầu dân ý thông qua nó. Giai đoạn này được đánh dấu bởi tình trạng bất ổn trong đời sống thường ngày và tình trạng tham nhũng cho tới khi luật về tình trạng khẩn cấp được tuyên bố ngày 21 tháng 9 năm 1972. Hiến pháp mới sau đó bắt đầu có hiệu lực dù một số khía cạnh của nó vẫn còn bị tranh cãi vì sự phê chuẩn của nó đang được bàn cãi tại Toà án tối cao. Sự tranh cãi này lên tới đỉnh điểm với việc Chánh án tối cao Roberto Concepcion từ chức. Tình hình tiếp tục xấu đi trong nhiều năm sau khi chế độ độc tài của Tổng thống Ferdinand Marcos, người ban đầu được dân bầu ra nhưng cuối cùng đã kéo dài thời cầm quyền của mình bằng những biện pháp trái luật, trở thành tình trạng tham nhũng và chế độ chuyên quyền trở nên công khai, rộng khắp đất nước, tiếng than oán của dân chúng và tình trạng bất đồng bị đẩy lên tới cực điểm.

Trong Cuộc cách mạng dân quyền năm 1986, Marcos và gia đình bị trục xuất tới Hawaii, khi Corazon Aquino, quả phụ của Thượng nghị sĩ đã bị ám sát trước đó [Benigno Aquino, Jr.], lên nắm quyền chính phủ sau một cuộc bầu cử đột xuất [snap election] nhiều tranh cãi. Sau cuộc cách mạng đó, năm 1987 Hiến pháp Philippines hiện tại được thông qua. Trong khi một số người đã nêu ra những cải cách về chính phủ và mức độ quay trở lại chế độ dân chủ của thời hậu Marcos, tình trạng tham nhũng, sự bất ổn trong đời sống đất nước và hoạt động của nhóm nổi loạn cộng sản cũng như những phong trào li khai Hồi giáo tiếp tục ngăn cản phát triển kinh tế của đất nước. Tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo, từng phải đối mặt với tình trạng bất ổn chính trị và những lời buộc tội gian lận bầu cử và tham nhũng.

Địa lýSửa đổi

Philippines là một quần đảo với 7.107 hòn đảo với tổng diện tích đất liền gần 300.000 kilômét vuông [116.000 dặm vuông. mi]. Nó nằm giữa 116°40' và 126°34' đông, và 4°40' và 21°10' bắc, giáp với Biển Philippines ở phía đông, Biển Đông ở phía tây, và Biển Celebes ở phía nam. Đảo Borneo nằm cách vài trăm kilômét về phía tây nam và Đài Loan thẳng phía bắc. Moluccas và Sulawesi ở phía nam và Palau ở phía đông phía trên Biển Philippines.

Thông thường quốc đảo này được chia thành ba nhóm đảo: Luzon [Vùng I đến V, NCR & CAR], Visayas [VI đến VIII] và Mindanao [IX đến XIII & ARMM]. Cảng biển đông đúc Manila, ở Luzon, là thủ đô quốc gia và là thành phố lớn thứ hai sau vùng ngoại ô của nó là Thành phố Quezon.

Khí hậu của Philippines nóng, ẩm, nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 26,5 °C [79,7 °F]. Có ba mùa: Tag-init hay Tag-araw [tháng nóng hay mùa hè từ tháng 3 đến tháng 5], Tag-ulan [mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 11] và Taglamig [mùa lạnh từ tháng 12 đến tháng 2]. Gió mùa tây nam [tháng 5 – tháng 10] được gọi là "habagat" và gió mùa đông bắc khô [tháng 1 – tháng 4] là "amihan".

Đa số các vùng đảo núi non thường có mưa rào nhiệt đới và có nguồn gốc núi lửa. Điểm cao nhất là Núi Apo ở Mindanao 2.954 mét [9.692 ft]. Có nhiều núi lửa đang hoạt động như Núi lửa Mayon, Núi Pinatubo và Núi lửa Taal. Nước này cũng nằm bên trong vành đai bão Tây Thái Bình Dương và hàng năm phải hứng chịu khoảng 19 cơn bão.

Nằm ở rìa phía tây bắc của Vành đai núi lửa Thái Bình Dương, Philippines thường xảy ra động đất và các hoạt động núi lửa. Khoảng 20 trận động đất được ghi nhận mỗi ngày ở Philippines, dù đa số là quá nhẹ để nhận ra được.

Khí hậuSửa đổi

Chính trịSửa đổi

Chính phủ Philippines được tổ chức kiểu cộng hoà nhất thể do tổng thống lãnh đạo, theo đó Tổng thống là người lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo chính phủ và tổng tư lệnh các lực lượng quân đội. Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ sáu năm, trong thời gian đó tổng thống sẽ chỉ định và chủ trì bộ máy chính quyền.

Nghị viện lưỡng viện gồm Thượng nghị viện và Hạ nghị viện; các thành viên của Thượng nghị viện được bầu tự do và Hạ nghị viện theo vùng địa lý. 24 thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ sáu năm, một nửa sẽ nghỉ sau mỗi nửa nhiệm kỳ ba năm, trong khi đó Hạ nghị viện gồm 250 thành viên với nhiệm kỳ ba năm.

Kinh tếSửa đổi

Dù từng là quốc gia giàu có thứ hai ở châu Á trong thập niên 60, sau Nhật Bản, Philippines dần trở thành một trong những nước nghèo nhất trong vùng. Vì giảm nhu cầu đối với các sản phẩm của Philippines, Hoa Kỳ đã rút đi, tham nhũng độc tài và quản lý tập trung, suy sụp kinh tế đã tăng lên mạnh mẽ trong những năm đầu thập niên 1980. Khoảng 10% GNP bị mất vì tham nhũng và những "người bạn tư bản" [crony capitalism] trong giai đoạn này. Phục hồi kinh tế đã diễn ra khá mạnh mẽ, nhưng so với các nước Đông Á khác, tốc độ này vẫn còn chậm. Xếp hạng hiện tại của Philippines là 118 trong tổng số 178 nước GDP theo đầu người [danh nghĩa].

Trong thời kỳ đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1998, kinh tế Philippines đã bị ảnh hưởng rất nhiều. Điều này càng trầm trọng hơn vì giá cả tăng cao, lạm phát, và thiên tai. Tăng trưởng kinh tế giảm từ 5% năm 1997 xuống 0.6% năm 1998, nhưng đã hồi phục tới khoảng 3% năm 1999 và 4% năm 2000 và tới năm 2004, lên hơn 6% trên năm. Chính phủ đã hứa hẹn sẽ tiếp tục cải cách kinh tế để đạt mức tăng trưởng tương đương với các nước công nghiệp mới ở Đông Á. Những nỗ lực nhằm cải thiện kinh tế đã bị ngăn cản bởi một khoản nợ công cộng lên tới 77% GDP. Ngân sách cho các khoản nợ còn cao hơn ngân sách cho giáo dục và quốc phòng cộng lại. Nguồn thu không đồng đều cũng là một vấn đề nghiêm trọng.

Chiến lược của chính phủ cho một sự phục hồi kinh tế gồm cải thiện hạ tầng, kiểm tra hệ thống thuế để tăng thu nhập cho chính phủ, giảm can thiệp và tăng cường tư nhân hoá nền kinh tế, tăng giao thương với các nước trong vùng. Những triển vọng tương lai phụ thuộc rất nhiều vào tình hình kinh tế của hai đối tác thương mại chính, Hoa Kỳ và Nhật Bản, và một cơ cấu hành chính rõ ràng cũng như các chính sách thích hợp của chính phủ.

Văn hóaSửa đổi

Nền tảng của văn hoá Philippines dựa trên các truyền thống văn hoá của nhiều nhóm dân bản địa trong vùng, gồm Tagalogs, Ilokanos, Visayans, Bikolanos và các nhóm khác. Tuy nhiên, nó cũng bị ảnh hưởng lớn từ các văn hoá của người Trung Quốc, người Tây Ban Nha, người Mỹ, và các nền văn hoá khác tuy ở mức độ nhỏ hơn.

Ảnh hưởng của Tây Ban Nha đối với văn hoá Philippines, bắt nguồn chính từ văn hoá Mexico và văn hoá Tây Ban Nha, là kết quả của hơn ba trăm năm chính quyền thuộc địa. Những ảnh hưởng Tây Ban Nha đó hiện vẫn thấy trong các cách thức phong tục và những nghi tức liên quan tới nhà thờ Ki-tô giáo, đặc biệt là trong các lễ hội tôn giáo. Hàng năm, người Philippine từ khắp nơi trong đất nước tổ chức những lễ hội gọi là Barrio Fiesta để tưởng nhớ các vị thánh bảo trợ cho thành phố, làng xã và các vùng. Mùa lễ hội được kỷ niệm với những ngày lễ nhà thờ, các cuộc diễu hành đường phố để vinh danh cáC vị thánh bảo trợ, những cuộc thi pháo, sắc đẹp và nhảy múa, và những cuộc thi chọi gà. Tuy nhiên, di sản rõ ràng nhất của Tây Ban Nha là sự phổ biến của các tên họ Tây Ban Nha của người Philippine. Nét đặc biệt này là duy nhất trong số các dân tộc ở châu Á, là kết quả của một nghị định của chế độ thuộc địa về phân loại họ, và áp dụng hệ thống tên họ Tây Ban Nha đối với những người dân Philippine.

Ảnh hưởng từ Trung Quốc đối với văn hoá Philippines có thể thấy rõ nhất trong ẩm thực tại nước này, ảnh hưởng này rất toàn diện. Sự phổ biến của các loại mì, được gọi theo tiếng địa phương là mami, cũng như các loại thực phẩm khác như các món ăn từ thịt là một bằng chứng rõ ràng về nguồn gốc Trung Quốc. Các ảnh hưởng khác gồm một số tên họ mượn có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Ảnh hưởng văn hoá Hoa Kỳ đối với Philippines chỉ bắt đầu từ hơn một thế kỷ nay. Di sản lớn nhất là việc sử dụng rộng rãi tiếng Anh. Môn thể thao được ưa chuộng nhất nước là bóng rổ. Cũng có một số khuynh hướng văn hoá Mỹ khác đang phát triển như ưa thích thức ăn nhanh [fast-food]. Ở Philippines, có rất nhiều điểm bán fast-food, và bên cạnh những ông khổng lồ Mỹ như McDonald's, Pizza Hut, Burger King, KFC, các cửa hàng bán đồ ăn nhanh trong nước cũng rất phát triển gồm Jollibee, Greenwich Pizza và Chowking. Người Philippine cũng ưa thích nhạc Mỹ, nhảy theo điệu Mỹ, xem phim Mỹ và các diễn viên truyền hình Mỹ. Các quy định đạo đức bản địa về tôn trọng gia đình, kính trọng người già và thân thiện vẫn không bị thay đổi.

Video liên quan

Chủ Đề