Những bài thơ viết về người phụ nữ việt nam trong văn học trung đại

    Nếu như trong các thế kỉ trước chủ nghĩa yêu nước là đề tài chiếm đa phần các sáng tác thì sang đến thế kỉ XVIII, ngòi bút của các tác giả trung đại tập trung về giá trị nhân đạo, với lòng cảm thương sâu sắc số phận của người phụ nữ. Họ - những người phụ nữ hội tụ đầy đủ công – dung – ngôn – hạnh nhưng lại phải chịu số phận hết sức đắng cay. Đó là nàng Kiều của Nguyễn Du, nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ, người phụ nữ trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương. Mỗi nhân vật trữ tình mang một nét riêng, nhưng ở họ đều là hình ảnh tiêu biểu nhất cho số phận cũng như vẻ đẹp người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.

    Trước hết họ là những người phụ nữ có vẻ đẹp ngoại hình, họ đều là những người phụ nữ xinh đẹp. Là vẻ đẹp khỏe khoắn, rắn rỏi, đầy sức sống: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Còn Vũ Nương chỉ được khái quát bằng câu văn rất ngắn: “tính đã thùy mị, nết na lại thêm phần tư dung tốt đẹp”. còn nàng Kiều, được Nguyễn Du ưu ái hơn cả, ông dùng những lời thơ đẹp đẽ nhất, tinh tế nhất để miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của nàng:

        “Kiều càng sắc sảo mặn mà

      So bề tài sắc lại là phần hơn

        Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

    Nguyễn Du đã lấy những hình ảnh đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả nàng Kiều, đó là đôi lông mày lá liễu như dáng núi mùa xuân, là đôi mắt có hồn, ẩn chứa trong đó là cả thế giới nội tâm đa dạng, phong phú.

    Những người con gái ấy không chỉ là đẹp người mà họ còn đẹp nết, đẹp về tâm hồn tính cách. Nàng Vũ Nương đoan trang, hiền thục, nết na đã khiến cho Trương Sinh cảm mếm về đức hạnh mà dùng trăm lạng vàng để lấy nàng về. Khi về làm dâu, nàng biết chồng có tính hay ghen và phòng ngừa quá sức nên luôn giữ gìn khuôn phép, đúng mực trong cách hành xử để hai vợ chồng không rơi vào cảnh bất hòa. Không chỉ vậy nàng còn là một người con dâu hiếu thảo, mẹ chồng luôn được nàng chăm sóc hết mực, khi bà ốm đau nàng thường dùng những lời nhẹ nhàng khuyên lơn để mẹ cố gắng ăn cháo, uống thuốc. Có mấy ai tạo được mối quan hệ mẹ chồng, nàng dâu tốt đẹp đến thế. Đến khi mẹ chồng chết nàng cũng lo tang ma chu toàn. Hơn thế, nàng còn là một người phụ nữ hết sức đảm đang. Chồng đi ra trận, nàng ở nhà một mình nuôi con, quán xuyến công việc gia đình một cách toàn vẹn nhất. Để con không phải chịu thiếu thốn tình cha, nàng còn tự chỉ vào bóng mình, để bé Đản được sống trọn vẹn trong tình yêu thương của cha mẹ. Có thể thấy Vũ Nương là hiện thân đầy đủ nhất của vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.

    Nàng Kiều lại mang trong mình vẻ đẹp của tài năng và tâm hồn rất đỗi nhạy cảm. Tài năng của nàng đủ cầm – kì - thi – họa, tài nào nàng cũng đạt đến độ xuất sắc. Nhưng nổi bật nhất chính là tài đàn, những bản đàn của nàng làm say đắm biết bao người. Cung đàn bạc mệnh ấy vừa cho thấy tâm hồn nhạy cảm, vừa như một dự báo cho số phận tương lai của chính nàng. Không chỉ vậy, trong lúc gia đình gặp nguy biến, nàng đã sẵn sang xả thân bán mình chuộc cha và em:

        Rẽ để cho thiếp bán mình chuộc cha

    Và ngay cả những ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích nàng vẫn không thôi lo nghĩ cho cha mẹ, tuổi cao sức yếu không có ai chăm sóc: “Xót người tựa cửa hôm mai/ Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ/ Sân Lai biết mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm”. Trong trường hợp của Kiều, nàng là người đau khổ nhất, nhưng gạt đi nỗi đau cá nhân, Kiều vẫn một lòng nghĩ về những người thân yêu của mình. Đó là biểu hiện của trái tim nhân hậu, vị tha, bao dung cao cả.

    Mặc dù, hội tụ đầy đủ vẻ đẹp về hình thức và tâm hồn, những tưởng những người phụ nữ ấy sẽ được hưởng cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng không, cả cuộc đời họ là những chuỗi tai ương nối tiếp nhau,. Quả đúng như Nguyễn Du đã từng tổng kết: “Chữ tài liền với chữ tai một vần” hay “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

    Người con gái trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương dù có vẻ đẹp tròn trịa tràn đầy sức sống, có tâm hồn thủy chung, son sắt nhưng cuộc đời lại lênh đệnh, phụ thuộc:

        Bảy nổi ba chìm với nước non

        Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

    Số phận của nàng Vũ Nương cũng chẳng khác gì cô gái kia. Lấy Trương Sinh không phải vì tình yêu, hơn thế lại có sự phân biệt về đẳng cấp. Ngay từ đầu đã báo hiệu một cuộc hôn nhân không lấy gì làm viên mãn. Khi nàng lấy chồng chưa bao lâu, chưa thỏa tình gối chăn thì chồng nàng bị gọi ra trận. Nàng sống thiếu thốn tình yêu thương lại phải một mình cáng đáng gia đình, nuôi con khôn lớn, chăm mẹ chồng già yếu. Nhưng tất cả nỗi đau về thể xác đó không đau đớn bằng việc Trương Sinh rũ bỏ, vu cho nàng cái tội mà nàng không có. Bị chồng nghi ngờ thất tiết, Vũ Nương đau đớn khôn cùng, và tận cùng của nỗi đau nàng đã lấy cái chết để giải thoát mình và chứng minh sự trong sạch của bản thân. Nàng chết đi, được Linh Phi cứu, sống cuộc đời bất tử song vẫn đầy bất hạnh, bởi tâm hồn nàng vẫn luôn hướng về ngôi nhà nhỏ, nơi có chồng và con nàng. Sống những chuỗi ngày dài, nhớ về quê hương, chẳng phải còn đáng thương hơn gấp bội đó sao.

    Số phận nàng Kiều cũng bất hạnh không kém, sau khi bán mình chuộc cha, cuộc đời nàng bước vào mười lăm năm nổi nênh, sóng gió. Ngày Mã Giám Sinh đến “Đắn đo cân sắc cân tài” ngã giá, lòng nàng đau như thắt lại “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. Những giọt nước mắt tủi cho thân phận bọt bèo của chính mình. Những ngày ở lầu Ngưng Bích nàng sống trong cảnh cô đơn, lặng lẽ, nàng nhớ về Kim Trọng – mối tình đầu trong trắng và đau đớn khi đã phụ bạc chàng. Nàng nhớ về cha mẹ, xót thương vì không thể chăm sóc cha mẹ khi họ già yếu. Và đặc biệt là dự cảm của nàng về số phận của mình khi ở lầu Ngưng Bích: “Buồn trông của bể chiều hôm/.../ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Bức tranh khung cảnh dữ dội, gào thét như báo hiệu trước cuộc đời đầy sóng gió của nàng.

    Bằng tất cả tình yêu thương và lòng trân trọng, các tác giả đã cho người đọc thấy vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Nhưng ẩn sau đó còn cho thấy số phận đầy sóng gió bất hạnh. Các tác phẩm vừa giàu giá trị hiện thực, tố cáo xã hội phong kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng, cướp đoạt hạnh phúc của họ; đồng thời cũng là tiếng nói nhân đạo, thể hiện niềm cảm thương sâu sắc với người phụ nữ.

Số phận người phụ nữ trong các tác phẩm văn học trungđại Việt Nam.A+APrintEmailHình ảnh người phụ nữ từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở của thi ca,nhạc, hoạ. Nét đẹp đằm thắm, duyên dáng, đáng yêu của họ đã làm chobao văn nhân, nghệ sĩ phải rung động trái tim yêu để rồi sáng tạo nênnhững áng thơ văn bất hủ ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ dân tộc. Từkhi nền văn học viết ra đời, thì bóng dáng người phụ nữ trở thành đề tàilớn được tập trung khắc họa ở nhiều khía cạnh, phương diện gắn liến vớiquá trình đi lên và phát triển của văn học.Do ảnh hưởng của thời đại, đã có lúc, người phụ nữ phải chịu nhiều bikịch cay đắng, xót xa với số kiếp bị lệ thuộc, không làm chủ được cuộcđời. Nhưng rồi, họ đã vươn lên tự giải phóng bản thân, dành được quyềntự chủ, khẳng định vị thế là “một nửa thế giới” của mình. Theo dòng chảyvăn học Việt Nam, qua từng thời kì, giai đoạn, ta sẽ có cái nhìn khát quát,toàn diện và sâu sắc về người phụ nữ…Văn học trung đạiPhụ nữ là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Từ trước thế kỉ XVI,nhân vật phụ nữđã thoáng hiện trong các tác phẩm văn xuôi tự sự cũngnhư trong thơ ca. Đó là hình ảnh những vị anh hùng dân tộc như BàTrưng, Bà Triệu, sống đánh giặc, chết hoá thành phúc thần tiếp tục giúpdân giúp nước; hoặc các nhân vật khác như Mị Châu, vì ngây thơ mà bịkẻ thù lợi dụng để đến mất nước tan nhà; như công chúa Tiên Dung thíchngao du sơn thủy, bất chấp luật lệnh của vua cha, tự ý kết duyên cùngchàng đánh cá Chử Đồng Tử nghèo khó không một mảnh khố che thân;hay nàng quận chúa A Kim yêu say đắm Hà Ô Lôi – một kẻ vừa xấu vừađen nhưng có giọng hát mê hồn…Trong lĩnh vực thơ ca, ta cũng thấy có một số bài, hoặc ngâm vịnh vềnhân vật lịch sử như các bài Vịnh Mị Ê, Vịnh nàng Điêu Thuyền, VịnhChiêu Quân, hoặc các bài nói về nỗi buồn thương của các thiếu phụ, kẻthì bị tình duyên dang dở như bài Chức Nữ nhớ Ngưu Lang, Tiên Tửmong Lưu Nguyễn, Hoàng Giang điếu Vũ Nương… Tuy nhiên, ở giaiđoạn này, nhân vật phụ nữ chưa trở thành đối tượng quan tâm chính củavăn học mà chỉ mới xuất hiện lẻ tẻ trong văn xuôi lịch sử, trong thần phả,trong truyện dân gian, hoặc trong các bài thơ điếu, vịnh,…Đến thế kỉ XVI, đặc biệt là thế kỉ XVIII, phụ nữ đã trở thành một trongnhững đề tài lớn của văn học. Các thể loại văn học dường như đều xoayquanh việc phản ánh số phận người phụ nữ. Vì vậy, trong văn học giaiđoạn này, hình tượng người phụ nữ hiện lên một cách khá đầy đủ và toàndiện trên nhiều bình diện. Về văn xuôi, các tác phẩm nổi tiếng viết về đềtài phụ nữ có “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ (nửa đầu thế kỉ XVI),“Truyền kì tân phả” của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), “Kiến văn lục”của Vũ Trinh (1759 – 1828),… Truyện Nôm cũng có rất nhiều tác phẩmviết về đề tài này, nhưng tiêu biểu hơn cả là các truyện “Tống Trân – CúcHoa”, “ Phạm Tải – Ngọc Hoa”, “Quan Âm Thị Kính”,… và các truyện“Song Tinh Bất Dạ” của Nguyễn Hữu Hào(? – 1713), “Hoa Tiên” củaNguyễn Huy Tự (1743 – 1790), “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (1766 –1820), “Sơ kính tân trang” của Phạm Thái (1777? – 1813),… Thơ ca viếtvề phụ nữ, nổi bật là thơ của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, “Chinh phụngâm khúc” của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm(?), “Cung oán ngâmkhúc” của Nguyễn Gia Thiều (1741 – 1798),…Từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX, trong các thể loại văn học, thơ ca cũngnhư văn xuôi tự sự, tác phẩm viết bằng chữ Hán cũng như viết bằng chữNôm,… dường như nở rộ đề tài viết về người phụ nữ và hình tượngngười phụ nữ nổi bật lên với hai nét cơ bản: hiện thân của cái đẹp vàhiện thân của bi kịch đau thương. Từ góc nhìn của văn học trong giaiđoạn này, người phụ nữ chủ yếu được phản ánh nghiêng về số phận bấthạnh và vẫy vùng trong lời kêu oán, than thân với khát vọng được giảiphóng. Hãy quay ngược thời gian, trở về quá khứ để tìm hiểu hình tượngngười phụ nữ trong văn học giai đoạn này.Nhân vật phụ nữ, ở thể loại tự sự hay trữ tình trong văn học trung đại,thường đẹp cả người lẫn nết, ít thấy có hiện tượng “xấu người đẹp nết”như trong văn học dân gian. Chính vì thế, các nhân vật chính diện lànhững phụ nữ trong văn học từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XIX hầu hết cósự hài hoà giữa cái đẹp về hình thức với cái đẹp về tâm hồn, họ là hiệnthân của cái đẹp: “đẹp người và đẹp nết”. Điều hầu như mới lạ: các cô gáikhi đi vào văn học giai đoạn này đều là những giai nhân tuyệt thế. HạnhNguyên trong “nhị độ mai” là một cô gái đẹp rực rỡ:“Người đâu trong ngọc trắng ngà,Mặt vành vạnh nguyệt, tóc rà rà mây”.Chị em Thúy Vân và Thúy Kiều rõ ràng là khuôn mẫu của sắc đẹp:“Vân xem trang trọng khác vời,Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.Kiều càng sắc sảo mặn mà,So bề tài sắc lại là phần hơn.Làn thu thủy, nét xuân sơn,Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.Sắc đẹp người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn GiaThiều đã đến mức siêu phàm:“Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn,Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa.Hương tươi đắm nguyệt say hoa,Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình”.Hồ Xuân Hương còn muốn vĩnh hằng hoá sắc đẹp của người con gáitrong bài thơ “Đề tranh tố nữ”:“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình.Chị cũng xinh mà em cũng xinh.Đôi lứa như in tờ giấy trắng,Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh”.Tuy nhiên, sắc đẹp của đa số nhân vật nữ trong văn học giai đoạn nàythường gắn liền với một phần phẩm chất không thể thiếu được, đó là tài.Ở họ, sắc và tài tạo thành một cặp đặc điểm không tách rời nhau. Theoquan niệm của các tác giả văn học trung đại, tài gồm bốn mặt sau đây:cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), hoạ (vẽ), nghĩa là: có tài đánh đàn, chơi cờ,làm thơ và vẽ. Có thể coi Thuý Kiều của Nguyễn Du là nhân vật tiêu biểucho phẩm chất nói trên. Tiếng đàn của nàng làm cho Kim Trọng phải“ngơ ngẩn sầu”, làm cho Thúc Sinh “cũng tan nát lòng” và làm cho HồTôn Hiến “nhăn mày, rơi châu”. Tài làm thơ của Kiều nhanh đến khó màtưởng tượng nổi:“Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.…Tay tiên gió táp mưa sa…”Đã nhanh, lại hay! Thơ của Kiều có thể cảm thông được quỷ thần, khiếnhồn ma Đạm Tiên phải hiện lên, khiến viên quan phủ “mặt sắt đen sì”phải rủ lòng thương, không những chỉ tha cho Kiều mà còn đứng ra làmlễ tác hợp cho nàng được lấy Thúc Sinh. Và Hoạn Thư, một con người taiquái cũng phải thốt lên:“Rằng: Tài nên trọng, mà tình nên thương”Tuy vậy, ca ngợi tài và sắc của người phụ nữ không phải là mục đích củatác giả văn học thế kỉ XVI - đầu XIX. Tài và sắc chỉ là một phương diệncủa cái đẹp và làm nền để bộc lộ bản chất của cái đẹp: đẹp nết. Khi nóiđến đẹp nết là ta đã đề cập tới phạm trù đạo đức. Trong văn học dân gianngười ta cho rằng:“Tốt gỗ hơn tốt nước sơnXấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”.Nhưng, như trên đã nói, trong văn học viết không có sự đối lập giữa hìnhthức (xấu người) với nội dung (đẹp nết). Hình thức và nội dung thườngcó sự hòa quyện sóng đôi. Vì thế, ở các truyện truyền kì cũng như truyệnNôm, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhân vậtphụ nữ luôn toát lên mộtphẩm chất cao đẹp: đức hi sinh, lòng vị tha và tấm tình chung thủy. Trướctai biến bất ngờ của gia đình, Thúy Kiều đã hi sinh thân mình, hi sinh tìnhyêu “Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha”.Rơi vào lầu xanh của Tú Bà, Kiều phải sống một cuộc đời nhơ nhớp. Cólần nàng toan tự tử để mong thoát khỏi kiếp sống đọa đày đó. Nhưng khiThúc Sinh ngỏ lời cầu hôn, Kiều không coi đấy là cơ may phải chớp lấy.Điều đầu tiên Kiều nghĩ đến là hạnh phúc của Hoạn Thư, người vợ hiệntại của Thúc Sinh. Nếu như nàng lấy chàng Thúc, một hiện thực khôngthể tránh khỏi cho Hoạn Thư là “Thêm người, người cũng bớt lòng riêngtây”.Rõ ràng, người bị thiệt thòi trước hết là Hoạn Thư. Tình cảm vợ chồngcủa Hoạn Thư sẽ bị chia sẻ. Kiều không đang tâm. Rồi khi được quan phủvà Thúc ông tác thành cho lấy Thúc Sinh, có thể nói, đó là lúc Kiều đượcsống trong hạnh phúc ấm êm. Nhưng nàng không giành giật hạnh phúccho riêng mình. Nàng nghĩ đến sự cô đơn, thiệt thòi của Hoạn Thư, do đónàng chủ động nài nỉ chàng Thúc trở về thăm vợ:“Xin chàng hãy trở lại nhà.Trước người đẹp ý, sau ta biết tình”.Làm việc này, Kiều hoàn toàn dự cảm được điều gì đang đợi mình sauchuyến viếng thăm vợ của chàng Thúc. Nàng nói:“Dù khi sóng gió bất bìnhLớn ra phận lớn, tôi đành phận tôi”.Biết hi sinh mình cho người là một trong những đức tính của Kiều nóiriêng và của các nhân vật phụ nữ trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI -đầu XIX nói chung. Cùng với lòng vị tha, tấm tình thủy chung son sắtcũng là một trong những phẩm chất nổi bật của ngườiphụ nữ.Kiều ăn ở với mọi người trước sau như bát nước đầy. Bà quản gia, vãiGiác Duyên, Thúc Sinh… là những người đã từng cưu mang, cứu vớtKiều. Sau này, khi đã trở thành vợ của người anh hùng cái thế Từ Hải,Kiều vẫn nhớ tới ơn sâu nghĩa nặng của họ. Nàng đền ơn chàng Thúc thậtlà trọng hậu:“Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”.Gặp lại Bà quản gia và vãi Giác Duyên, Kiều nhắc tới công ơn cứu giúpcủa họ bằng lời nói vừa chân thật, vừa cảm động:“Nhớ khi lỡ bước sảy vời,Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.Nghìn vàng gọi chút lễ thường,Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân!”.Hình ảnh Ngọc Hoa trong truyện “Phạm Tải – Ngọc Hoa” còn đặc sắchơn. Có thể nói, đó là hình ảnh lí tưởng của tình yêu chung thủy sắt son.Là con gái Trần tướng công, một viên quan to và giàu có, nhưng NgọcHoa lại yêu và kết duyên cùng Phạm Tải – chàng hàn sĩ lỡ thời, khôngchốn lương thân, không nơi trú ngụ, phải đi ăn xin. Vua Trang Vương épnàng bỏ Phạm Tải để lấy mình, nàng kiên quyết cự tuyệt. Phạm Tải bịTrang Vương sát hại, Ngọc Hoa ôm xác chồng về nhà. Cái chết khôngchia lìa được tình yêu của họ, suốt ba năm ròng, Ngọc Hoa vẫn gắn bóvới người chồng đã chết ấy:“Ngày ngày ngồi ở bên ngoài,Đêm thời mở nắp quan tài vào trong.Đá vàng khăng khăng thuỷ chung,Cổ tay lại gói đầu chồng như xưa”.Ba năm như vậy trôi qua. Lấy cớ nàng mãn tang chồng, Trang Vương saingười đến bắt Ngọc Hoa về kinh đô, ép nàng làm vợ. Ngọc Hoa khôngchịu đầu hàng, nàng tự tử để giữ trọn tình nghĩa với chồng. Xuống đếnâm cung, nàng còn tìm gặp Phạm Tải, cùng đưa nhau đến gặp DiêmVương để kiện Trang Vương, bắt tên này phải đền tội. Tình yêu chungthuỷ đã giúp họ chiến thắng. Cuối cùng Trang Vương bị bỏ vào vạc dầu,Phạm Tải và Ngọc Hoa được sống lại, trở về dương thế, Phạm Tải lênngôi trị vì thiên hạ…Mỗi một thể loại văn học, mỗi một tác giả văn học lại có cách biểu đạtriêng về cái đẹp của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã hình tượng hoáphẩm chất của người phụ nữtrong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Bánh trôinước” theo kiểu riêng của bà:“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,Bảy nổi ba chìm với nước non.Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.Dù cuộc đời có bị vùi dập “bảy nổi ba chìm” thì “tấm lòng son” củangười phụ nữ vẫn được giữ gìn trọn vẹn. Đó là nét nổi bật thứ nhất vềhình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam thế kỉ XVI - đầu XIX.Với đầy đủ những vẻ đẹp đó, đáng lẽ ra, người phụ nữ phải được sốngmột cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn nhưng ở giai đoạn này, cả nước Việtchìm trong những ràng buộc, lễ giáo khắc nghiệt tối tăm. Và vô hìnhchung, số phận của người phụ nữ cũng không thể nào vượt ra khỏi ranhgiới của hoàn cảnh xã hội. Dưới chế độ phong kiến, mọi thế lực xã hội, kểcả gia đình, đều có thể chà đạp lên thân phận người phụ nữ. Đứng đầucác thế lực xã hội thời bấy giờ là vua chúa.Để phục vụ cho việc ăn chơi truỵ lạc, bọn chúng đã kén hàng trăm cô gáitrẻ trung, xinh đẹp vào cung làm phi tần. Chế độ cung tần dã man đã làmcho tuổi xuân và sắc đẹp của các cô gái bị chôn vùi trong cung cấm.“Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều là tiếng oán thán đến rớmmáu cho những số phận đau thương đó. Khi đã vào cung, ngoại trừ mộtvài người có cái may mắn được vua chúa sủng ái, còn hầu hết các cungnữ đều mau chóng bị ruồng bỏ, lãng quên. Họ chỉ còn biết âm thầm thởthan, oán trách:“Hoa này bướm nỡ thờ ơĐể gầy bông thắm, để xơ nhị vàng”.Dân gian thường nói:“Vua thì nhiều vợ nhất đờiBa trăm mỹ nữ, sáu mươi cung tần”.Bởi quá nhiều cung tần mỹ nữ như vậy, người cung phi không thể tìmđược cho mình chỗ đứng trong cái “gia đình” một chồng mà có tới vài batrăm vợ ấy. Họ buộc lòng phải thốt lên:“Ngán thay cái én ba nghìnMột cây cù mộc biết chen cành nào”.Sống âm thầm cô đơn, để cho tuổi xuân tàn tạ và trở thành những ngườikhông chồng không con “Bỗng không mà hoá ra người vị vong” (Ngườivị vong: người có chồng bị chết) rồi chết già trong cung cấm, đó là sốphận không thể tránh khỏi của người cung nữ.Chế độ cung tần còn làm cho nhiều gia đình tan nát, cha xa con, vợ lìachồng. Ngọc Hoa trong truyện “Phạm Tải - Ngọc Hoa” là một ví dụ tiêubiểu cho những số phận bi ai. Nàng bị vua Trang Vương ép phải bỏ PhạmTải – người chồng mà nàng hết mực yêu thương để lấy hắn. Ép khôngđược, Trang Vương đã dùng thủ đoạn độc ác: giết Phạm Tải, Ngọc Hoađau đớn tuyệt vọng:“Trời cao đất rộng có hay,Sát phu, kiếp phụ, sự này thấu chưa?”