Tại sao đạo phật biến mất ở ấn độ

Mặc dù có rất nhiều yếu tố được đưa ra để lý giải cho sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ nhưng thật ra thì cũng chưa ai xác định được đâu là nguyên nhân thật sự làm cho Phật giáo bị suy tàn. Bởi vì những sự kiện mà ta đưa ra ở đây, chúng cũng xảy ra đối với các tôn giáo khác cũng như với Phật giáo ở những nước khác. Ví dụ như cho rằng Phật giáo suy tàn là do sự suy đồi đạo đức của chư Tăng nên tín đồ đã quay lưng lại với họ thì cũng không đúng lắm.

Trong lịch sử tôn giáo, chưa thấy có tôn giáo nào bị diệt vong chỉ vì lý do đạo đức. Hơn nữa chúng ta nên nhớ rằng, bên cạnh những người “phá giới phạm trai” còn có những vị khác mà đời sống của họ rất là gương mẩu và phạm hạnh. Họ chính là rường cột Phật pháp, chống đỡ ngôi nhà Phật pháp trong lúc suy vi.

Hay khi Phật giáo từ Ấn Độ mới truyền vào Trung Quốc, tôn giáo này cũng vấp phải sự chống đối từ các tôn giáo bản địa của người Trung Quốc như Đạo giáo, Lão giáo, rồi các pháp nạn Tam Võ Nhứt Tôn… Nhưng Phật giáo Trung Quốc vẫn không rơi vào tình cảnh tiêu vong như ở Ấn Độ.

Có lẽ nói như Kane, không phải một hay một vài nguyên nhân làm cho Phật giáo ở Ấn Độ suy vong mà là sự kết hợp của tất cả các nguyên nhân, chủ quan và khách quan, tương tác lẫn nhau trong một thời gian dài mới làm cho Phật giáo Ấn Độ thành ra như thế. Nếu không, chúng ta cũng đành tin vào hai chữ Định mệnh huyền bí. Định mệnh của Phật giáo Ấn Độ là như thế. Và bầy giờ hãy cùng tìm hiểu, phân tích những nguyên nhân dẫn đến việc Phật Giáo biến mất khỏi Ấn Độ nhé.

Xem thêm: Tâm linh huyền bí: Hành trình 12 tiếng đưa bé Voi trở về với gia đình

Nguyên nhân chủ quan

– Theo tường thuật của Pháp Hiển, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh, những người đến Ấn Độ vào các thế kỷ V, VI, và VII thì lúc bấy giờ các Tăng sĩ Ấn Độ đã bộc lộ sự suy thoái đạo đức. Họ sống xa hoa và không biết tiết độ trong ăn uống. Họ có gia đình và đem cả vợ con vào chùa ở mà không hề biết xấu hổ.

Các chùa bắt đầu làm kinh tế, và chư Tăng trở thành thương gia hay nhà công nghiệp. Họ cũng chăn nuôi và nuôi tớ trai, tớ gái. Họ sở hữu những tài sản, cả động sản lẫn bất động sản, với số lượng lớn. Nói chung thì họ chỉ thích làm công việc thế gian, trong khi đó thì hoàn toàn lơ là với lời Phật dạy, không học cũng không tu.

– Thật ra sự suy thoái đạo dức của chư Tăng Ấn Độ còn nhiều khía cạnh để bàn chứ không nên nhìn một cách đơn giản. Ví dụ như thời vua Asoka, do vì vua quá ủng hộ Phật giáo nên chư Tăng được nhiều ưu đãi. Điều này đã thu hút những tầng lớp bất hảo của xã hội. Họ vào chùa để khỏi phải đi lính và lao động nhưng lại được hưởng nhiều quyền lợi. Đã thế thì hẳn nhiên họ không thể nào họ tu hành một cách chơn chánh.

Điều này đã làm cho những vị chân tu bất bình và kết quả là suốt bảy năm không hề tổ chức an cư kiết hạ và bố-tát, khiến cho vua Asoka phải làm một cuộc thanh lọc và đuổi 60 ngàn Tăng sĩ giả ra khỏi Tăng đoàn. Dù sao đi nữa thì tình trạng sa đọa của chư Tăng là có thật, và điều này đã góp phần không nhỏ vào sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ.

– Thiếu tổ chức là một nguyên nhân khác. Phật giáo từ xưa đến nay không có một tổ chức chặt chẽ đối với Tăng đoàn và nhất là đối với cộng đồng Phật tử tại gia. Các tín đồ Phật giáo không có một sự liên kết đồng nhất và xây dựng một tổ chức đặc thù cho hàng tại gia như tín đồ ở các tôn giáo khác. Tính không tổ chức ở đây còn thể hiện ở chỗ là Phật giáo không có một chương trình để ràng buộc tín đồ gắn bó với đạo Phật từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Ở các tôn giáo khác, khi đứa trẻ vừa sinh ra thì họ đã đem đến đền thờ hoặc nhà thở để làm lễ cho đứa bé như lễ rửa tội của đạo Thiên Chúa, coi như đứa trẻ đó đã là một tín đồ rồi. Cho nên một người theo đạo là cả nhà theo đạo, một nhà theo đạo là cả dòng họ theo đạo, và được tiếp nối từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Còn đối với Phật giáo, theo đạo là một việc làm tự nguyện, hơn nữa còn được khuyến khích là hãy suy nghĩ và tìm hiểu kỹ càng trước khi quy y. Truyền thống này thật ra đã có từ thời Đức Phật. Chính Đức Phật không bao giờ tìm cách kêu gọi người khác quy y cho đến khi nào người ta thật sự mong muốn.

Tuy nhiên, khi Đức Phật còn tại thế, người ta đến với đạo Phật thông qua nhân cách tuyệt vời của Đức Phật. Nhưng khi không còn Đức Phật nữa, nếu như chư Tăng không thể thu hút họ thì họ hoặc là con cháu họ sẽ bỏ đạo Phật mà theo đạo khác. Việc không thành lập một cộng đồng Phật giáo chuyên biệt, lúc bình thường thì có vẻ như vô hại, nhưng khi Phật giáo gặp nạn thì không thể nào chống đỡ nổi vì không có tổ chức, không có người lãnh đạo, và điều này đã đúng với Phật giáo Ấn Độ.

– Khi Hồi giáo xâm lăng Ấn Độ, họ sát hại tất cả các tôn giáo bản địa khác như đạo Hindu, đạo Jain, và dĩ nhiên là đạo Phật, tuy nhiên trong khi những tôn giáo khác phục hồi lại được thì chỉ có Phật giáo là bị diệt vong tại Ấn Độ. Vì sao như vậy? Vì các tín đồ Phật giáo, như Jacobi đã chỉ ra, “như thể là người ngoài, người bạn, và người ủng hộ của Tăng đoàn mà thôi”. Còn Tăng đoàn thì họ còn cúng dường, ủng hộ. Khi Tăng đoàn tan rã thì họ cũng tan rã theo. Không có ai đứng ra kêu gọi bảo vệ Phật pháp.

Xem thêm: Đạo mẫu – Tín ngưỡng thuần Việt đang bị lãng quên

Nguyên nhân khách quan

– Về nguyên nhân khách quan, đầu tiên và trước hết phải kể đến sự thù hằn của đạo Bà-la-môn nói chung. Lý do là Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, vì thế đã đe dọa vị trí “cao quý” của giai cấp Bà-la-môn. Phật giáo cũng chống lại việc hiến tế động vật. Người Ấn có thói quen mời các đạo sĩ làm lễ cúng các vị thần ở làng hay gia đình họ. Do anh hưởng của Phật giáo, người ta không còn tin và không còn mời các đạo sĩ làm lễ nữa, do đó mà các đạo sĩ này bị mất đi nguồn lợi lớn, nên họ đã kết hợp với nhà cầm quyền để chống lại Phật giáo.

Đặc biệt là khi Phật giáo gần như trở thành quốc giáo dưới thời vua Asoka, nghĩa là đe dọa sự tồn tại của họ, thì dĩ nhiên các Bà-la-môn và tín đồ của họ không thể làm ngơ. Do đó họ phát động một phong trào chống lại Phật giáo với nhiều hình thức. Một mặt họ gieo rắc tâm lý thù hằn đối với chư Tăng, như cho rằng nếu ai gặp phải chư Tăng thì sẽ rất là xui xẻo. Mặt khác họ đồng hóa Phật giáo vào trong tôn giáo của họ, như tuyên truyền Đức Phật là hóa thân thứ chín của thần Vishnu, và Phật giáo là một nhánh của Bà-la-môn giáo.

– Bên cạnh các giáo sĩ và học giả Bà-la-môn giáo tấn công Phật giáo trên mặt trận tư tưởng, các ông vua Bà-lamôn đã dùng bạo lực để đàn áp tôn giáo của Đức Phật. Vua Pusyamitra, người sáng lập ra triều đại Sunga, sau khi lên ngôi đã tiến hành khôi phục lại Bà-la-môn giáo vốn mất vị trí độc tôn dưới thời vua Asoka cũng như các đời vua của triều đại Khổng tước trước.

Một mặt vua cho khôi phục việc hiến tế súc vật, mặt khác ra sức tiêu diệt Phật giáo bằng cách phá hủy chùa chiền, đền tháp và tàn sát chư Tăng, làm cho Phật giáo trong thời kỳ này không chỉ mất đi sự ủng hộ của hoàng gia trước đây mà mà bị tổn thương nặng nề.

Vua Sasanka [603-620] đối với Phật giáo còn nặng tay hơn nữa. Theo ghi chép của Huyền Trang thì vua Sasanka, ngoài việc phá các chùa chiền, còn quăng phiến đá có dấu chân Phật xuống sông Hằng, chặt cây bồ-đề ở Bồ-đề đạo tràng, thay tượng Phật ở Bồ-đề đạo tràng bằng tượng thần Siva.

– Nếu như sự thù hằn của Bà-la-môn giáo làm cho Phật giáo Ấn Độ bị suy yếu thì sự tấn công của người Hồi giáo đã bứng Phật giáo ra khỏi xứ sở này. Người Hồi giáo Ả Rập bắt đầu xâm lược Ấn Độ vào thế kỷ thứ VII. Đến thế kỷ thứ XI là người Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Để cho tiện việc thiết lập tín ngưỡng của họ, người Ả Rập đã ra tay mạnh mẽ đối với các tôn giáo bản xứ.

Theo Amitabha Chatterjee trong Ai hủy diệt Đại học Nalanda thì có đến hàng ngàn Tăng sĩ đã bị quăng vào lửa hoặc bị chặt đầu. Những người sống sót thì tìm cách chạy trốn đến các nước lân cận như Trung Hoa, Nepal, Tây Tạng trong khi hàng triệu tín đồ bi bắt buộc cải đạo sang Hồi giáo.

– Vấn đề là tại sao đạo Hindu [Bà-la-môn] cũng bị đàn áp như Phật giáo mà họ có thể phục hồi lại được, trong khi Phật giáo thì không? Theo Tiến sĩ Ambedkar thì đó là do cơ chế tu sĩ Phật giáo khác với Bà-la-môn giáo. Đối với Phật giáo, không phải ai cũng có thể làm Tăng, nhưng một Bà-la-môn đã là Bà-la-môn từ lúc mới sinh ra. Sự tồn tại của một tôn giáo về căn bản, rõ ràng phụ thuộc vào vai trò của tầng lớp tu sĩ rất lớn.

“Bằng cách giết hại chư Tăng, người Hồi coi như đã giết Phật giáo. Thanh kiếm của người Hồi giáo đã giáng mạnh xuống tầng lớp tu sĩ, làm cho họ hoặc chết hoặc trốn ra nước ngoài, không còn ai giữ gìn ngọn đèn Chánh pháp”. Ambedkar đã viết trong Thanh gươm của Hồi giáo như vậy.

– Thật ra sự thụ động của chư Tăng và Phật tử trước sự tàn sát của Hồi giáo một phần cũng do tâm lý. Ngài Huyền Trang kể lại rằng khi ngài đang ở Ấn Độ thì đã nghe nói về thuyết mạt thế rồi. Người ta tin rằng Phật giáo sẽ bị tiêu diệt 1.500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Đó là số phận của Phật giáo. Cho nên khi người Hồi giáo đến, người Phật tử nghĩ rằng thời kỳ Phật giáo đã kết thúc, cho nên họ đã không chống lại người Hồi.

Trường hợp chư Tăng của Đại học Nalanda là một ví dụ. Nhiều sử liệu ghi lại rằng hàng ngàn Tăng sĩ của trường đã ngồi im cho mấy chục quân Hồi mặc tình chém giết. Họ không đánh trả lại là do họ thực hành hạnh bất bạo động, nhưng lý do chính là họ bị ảnh hưởng bởi thuyết mạt thế đang thịnh hành thời bấy giờ.

– Trên đây là những nguyên nhân nổi bật được cho là góp phần làm suy tàn Phật giáo Ấn Độ. Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác nữa. Ví dụ như có học giả cho rằng do vì Phật giáo dựa quá nhiều vào giai cấp lãnh đạo, nên khi triều đại này sụp đổ mà gặp triều đại kế tiếp không ủng hộ thì Phật giáo liền suy yếu ngay.

– Học giả James Atkins trong quyển Những tôn giáo ở Trung Quốc thì tin rằng Phật giáo Ấn Độ suy tàn là do các Tăng sĩ lỗi lạc của Ấn Độ đi ra nước ngoài để truyền bá Phật giáo nên không còn ai giữ gìn Phật giáo trong nước. Có người thậm chí còn quy tội cho Phật giáo Mật tông, vì cho rẳng một số nghi thức của Mật tông liên quan đến tính dục đã làm yếu đi nền tảng đạo đức của Tăng sĩ.

Một số học giả Bà-la-môn thì đổ thừa Phật giáo suy tàn là do đệ tử Phật không tin vào Thượng đế và thẩm quyền của Vệ-đà. Tuy nhiên lý thuyết này không vững, bởi vì Kỳ-na giáo chẳng hạn, cũng đâu có tin vào Thượng đế và Vệ-đà, nhưng các tôn giáo ấy vẫn tồn tại ở Ấn Độ cho đến ngày nay.

“Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó“. [Albert Einstein]

Video liên quan

Chủ Đề