Đâu không phải bài học lịch sử mà chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã để lại cho lịch sử dân tộc ta

Năm 937, Kiều Công Tiễn lập mưu giết chết Dương Đình Nghệ, thâu tóm quyền lực. Trước sự phản kháng của nhân dân trong nước, Kiều Công Tiễn rũ bỏ quyền lợi dân tộc, cầu cứu vương triều Nam Hán ở bên kia biên giới với hy vọng có thể bảo toàn địa vị của bản thân. Nhân cơ hội đó, vua Nam Hán cử Hoàng tử Lưu Hoằng Tháo làm thống lĩnh, phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Đất nước đứng trước thử thách cam go: nền tự chủ vừa mới được khôi phục đã bị đe dọa bởi thù trong giặc ngoài.

Khi đó, Ngô Quyền là con rể của Dương Đình Nghệ, nắm quyền trấn thủ vùng đất Ái Châu [Thanh Hóa]. Ngô Quyền sớm bộc lộ tài năng kiệt xuất, trở thành một vị tướng nổi tiếng được nhân dân yêu mến, quân sĩ khâm phục. Tài năng, nghị lực bản thân và thực tiễn chiến đấu đã rèn luyện Ngô Quyền thành một nhà quân sự dày dạn kinh nghiệm, một thủ lĩnh có uy tín và ảnh hưởng rộng lớn. Trước yêu cầu của lịch sử, vị tướng trẻ tài năng Ngô Quyền trở thành trung tâm đoàn kết mọi lực lượng kháng chiến, quy tụ sức mạnh cả nước diệt thù trong, đánh giặc ngoài, bảo vệ độc lập dân tộc.

Đầu mùa đông năm Mậu Tuất [938], Ngô Quyền tiến quân từ Ái Châu ra bao vây thành Đại La [Hà Nội], nhanh chóng tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Mối họa bên trong bị diệt trừ. Khối đoàn kết dân tộc được củng cố để đánh giặc, giữ nước.

Ngay sau đó, Ngô Quyền và bộ chỉ huy cuộc kháng chiến chống Nam Hán lần thứ hai [938] xác định quyết tâm tổ chức một trận đánh lớn tiêu diệt binh thuyền địch ngay tại vùng cửa sông Bạch Đằng, nơi đối phương buộc phải đi qua. Ông đích thân chỉ huy quân từ vùng trung tâm đồng bằng Bắc Bộ tiến ra vùng duyên hải Đông Bắc để chuẩn bị thế trận kháng chiến.

Ngô Quyền là một vị tướng tài, từng trải nhiều chinh chiến, nhưng vùng duyên hải Đông Bắc lại không phải là địa bàn quen thuộc của ông. Các tướng lĩnh cao cấp Ngô Xương Ngập, Dương Tam Kha, Đỗ Cảnh Thạc... cũng chưa từng có kinh nghiệm tác chiến trên chiến trường ven biển này. Tuy nhiên, những người dân yêu nước sinh sống nhiều đời ở đây có những hiểu biết sâu sắc về địa hình, con nước... Trong khí thế sục sôi đánh giặc giữ nước, những người con của quê hương Bạch Đằng hăng hái tham gia lực lượng kháng chiến, đem những hiểu biết được tích lũy qua nhiều thế hệ đóng góp vào chiến công chung của toàn dân tộc.

Khi tiến quân ra vùng ven biển Đông Bắc, Ngô Quyền đóng đại bản doanh ở làng Lương Xâm [phường Nam Hải, quận Hải An, TP. Hải Phòng], sau đó chuyển về làng Gia Viên [trung tâm TP. Hải Phòng]. Nhiều thanh niên các làng xã hai bên sông Bạch Đằng hăng hái nhập ngũ hoặc tự vũ trang thành các đội dân binh tham gia chiến đấu.

Với sự giúp đỡ nhiệt thành, tận tụy của những người dân địa phương, Ngô Quyền đã khảo sát địa hình vùng sông biển Đông Bắc, xác định đoàn thuyền chiến Nam Hán sẽ tiến từ biển vào qua cửa sông Bạch Đằng, sau đó ngược dòng sông để tiến sâu vào nội địa nước ta. Ông quyết định lựa chọn vùng hạ lưu và cửa biển Bạch Đằng làm trận địa quyết chiến với quân thù. Khi đó, vùng cửa biển Bạch Đằng còn nằm sâu trong đất liền, là cửa của sông Bạch Đằng và sông Cấm, nằm ở phía Đông Nam quận Hải An, TP. Hải Phòng hiện nay.

Được những người dân địa phương am hiểu sông nước tận tình chỉ dẫn, Ngô Quyền nhanh chóng hiểu rõ địa hình và nắm được quy luật lên xuống của thủy triều trên vùng cửa biển Bạch Đằng. Ông khẩn trương cho xây dựng giữa vùng sông nước mênh mông một thế trận mai phục lợi hại để chủ động phá giặc. Ông huy động binh sĩ và dân chúng vào rừng đẵn gỗ, vạt nhọn, bịt sắt rồi cho đóng xuống hai bên bờ và hai bên chân dải chắn ở vùng cửa biển, tạo nên các bãi cọc, bãi chướng ngại khiến cho thuyền địch không thể di chuyển bình thường. Khi nước triều lên, các bãi cọc ngập chìm không thấy tăm tích. Khi triều rút xuống, những hàng cọc nhô lên, sẵn sàng ngăn cản và chọc thủng thuyền địch. Trong những ngày lạnh giá cuối đông năm Mậu Tuất [938], quân dân ta khắc phục mọi khó khăn, cùng chung sức đồng lòng dựng lên bãi cọc vĩ đại nơi cửa biển Bạch Đằng.

Cuối tháng 12 năm Mậu Tuất [938], đoàn binh thuyền Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo chỉ huy từ Quảng Đông [Trung Quốc] vượt biển, len qua các đảo nhỏ tiến vào vịnh Hạ Long rồi tiến thẳng vào cửa biển Bạch Đằng. Ngô Quyền cử một đội thuyền nhẹ tiến ra khiêu chiến. Đội thủy quân tinh nhuệ chiến đấu dũng cảm, quyết liệt, vừa cố kìm chân địch chờ cho nước triều lên cao, vừa để đối phương không hoài nghi, giữ bí mật tuyệt đối cho trận địa mai phục. Quân Nam Hán vừa tiến vừa đánh, lợi dụng quân đông, khí thế đương hăng và lúc nước triều dâng cao, tăng tốc tiến sâu vào vùng cửa sông Bạch Đằng, không ngờ bị lọt hoàn toàn vào trận địa mai phục của quân dân ta. Nước triều xuống nhanh, các bãi cọc lộ ra. Ngô Quyền đích thân chỉ huy đại quân thủy bộ đổ ra từ các phía, tấn công dữ dội vào đội hình địch.

Quân Nam Hán bị đánh trước mặt, sau lưng, bên sườn, cả dưới nước và trên bờ. Đội thuyền chiến Nam Hán to lớn, nặng nề, lúng túng chống đỡ, nhanh chóng rối loạn và bất lực. Các chiến thuyền bị vướng vào những bãi cọc, không sao thoát ra được, bị cọc nhọn đâm thủng, va chạm vào nhau mà chìm đắm. Chủ tướng địch là Lưu Hoằng Tháo cùng hầu hết quân Nam Hán bị tiêu diệt tại trận. Đạo quân xâm lược vĩnh viễn bị nhấn chìm xuống dòng sông Bạch Đằng lịch sử.

Trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng cuối năm 938 do Ngô Quyền tổ chức và trực tiếp chỉ huy diễn ra trong một con nước triều, tức là chỉ trong một ngày và thắng lợi hoàn toàn. Lực lượng quân sự đông đảo cùng toàn bộ đội binh thuyền hùng mạnh của vương triều Nam Hán đã bị chặn đứng và tiêu diệt ở ngay vùng địa đầu Tổ quốc. Đây là trận đánh thần tốc với hiệu suất cao bậc nhất trong lịch sử quân sự Việt Nam.

Ngay từ cuối thế kỷ 13 - đầu thế kỷ 14, nhà sử học Lê Văn Hưu đã khẳng định tài năng và công lao của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi và đánh cũng giỏi vậy”.

Không chỉ là một vị tướng lĩnh có tài thao lược, Ngô Quyền còn là một nhà chính trị xuất sắc. Ông đã quy tụ được lực lượng, sức mạnh của cả nước, nhận được sự đồng lòng chung sức của mọi tầng lớp nhân dân. Rõ ràng không có nhân dân thì không có kế sách Bạch Đằng, cũng không có bãi cọc Bạch Đằng và càng không thể có được chiến thắng Bạch Đằng lẫy lừng lịch sử. Ngô Quyền và bộ chỉ huy kháng chiến biết tìm và tìm được nguồn sức mạnh trong dân, mạnh dạn dựa vào dân, quy tụ và đoàn kết các lực lượng để tạo dựng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc đánh giặc giữ nước. Chiến thắng Bạch Đằng cuối năm Mậu Tuất [938] cũng để lại bài học sâu sắc về dựa vào dân để chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, tự chủ của quốc gia - dân tộc.

QPTD -Thứ Sáu, 22/11/2013, 09:28 [GMT+7]

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 – nghệ thuật đánh bại quân xâm lược ngay từ trận đầu, trên tuyến đầu

Sau thất bại của cuộc xâm lược lần thứ nhất [năm 930, 931], vương triều Nam Hán chưa từ bỏ dã tâm thôn tính nước ta. Vì thế, sự cầu viện của tên phản quốc Kiều Công Tiễn là “thời cơ vàng” để chúng phát động chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Nhằm tránh lặp lại thất bại, vua Nam Hán đã chuẩn bị rất kỹ, với lực lượng hàng chục vạn quân lương thảo dồi dào và hàng trăm chiến thuyền cỡ lớn,… Theo ý đồ và kế hoạch đã vạch ra, địch chia quân làm hai đạo: đạo binh thứ nhất, gồm lực lượng chủ lực tinh nhuệ cùng nhiều chiến thuyền lớn do thái tử Lưu Hoằng Tháo cầm đầu, theo đường biển ồ ạt tiến vào nước ta; đạo binh thứ hai, do vua Nam Hán trực tiếp chỉ huy, áp sát biên giới để sẵn sàng ứng viện.

Mô hình Chiến thắng Bạch Đằng [năm 938]

Đoán trước được ý đồ “nội công, ngoại kích” của địch, Ngô Quyền đã tập hợp các tướng lĩnh, hào kiệt, kéo quân từ Ái Châu ra nhanh chóng diệt trừ tên phản quốc Kiều Công Tiễn và bè đảng của hắn - dập tắt mối họa bên trong, làm thất bại ngay từ đầu âm mưu dùng nội ứng của vương triều Nam Hán. Tiếp đó, chuẩn bị đất nước về mọi mặt để chống giặc. Trước thế giặc mạnh, Ngô Quyền một mặt kêu gọi, động viên nhân dân phát huy sức mạnh cố kết cộng đồng và khí thế độc lập của dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp để đối phó với chiến tranh xâm lược. Mặt khác, Ông chủ trương lợi dụng địa hình hiểm trở của núi rừng, sông nước vùng Đông Bắc bày một thế trận hiểm hóc và tập trung lực lượng mạnh để tiến hành trận chiến lớn, đánh bại quân địch ngay tại cửa sông Bạch Đằng. Theo kế sách này, quân ta đã bí mật bố trí các bãi cọc ngầm ở nơi hiểm yếu dưới lòng sông Bạch Đằng và triển khai các trận địa mai phục hai bên bờ, sẵn sàng đánh địch. Đúng như dự đoán của ta, khi bị kích động bởi bộ phận khiêu chiến, nhử địch, quân Nam Hán đã hùng hổ tiến vào sông Bạch Đằng hòng “ăn tươi, nuốt sống” quân ta và chúng đã mắc mưu - lọt vào trận địa mà ta đã bày sẵn. Khi nước thủy triều đang xuống, Ngô Quyền lệnh cho thủy quân từ các vị trí ở thượng lưu phản công kiên quyết, mãnh liệt đánh xuống chặn đầu, kết hợp với quân thủy, quân bộ mai phục hai bên bờ sông đánh vào bên sườn đội hình địch. Bị đòn đánh mạnh bất ngờ, quân địch không kịp trở tay, hoảng loạn tháo chạy hòng thoát ra biển, nhưng đâm vào trận địa cọc ngầm của quân ta. Trong thời gian ngắn, toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, trong đó có cả chủ soái Lưu Hoằng Tháo. Chiến thắng nhanh, gọn, triệt để của quân và dân Tĩnh Hải quân1 trên sông Bạch Đằng khiến vua Nam Hán không kịp ứng phó, tiếp viện mà chỉ có cách duy nhất là “thương khóc, thu nhặt tàn quân còn sót mà rút lui”2 và từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 có ý nghĩa lịch sử to lớn, là mốc son chói lọi chấm dứt hơn một nghìn năm Bắc thuộc; phá tan mưu đồ “đồng hóa” - một chính sách đặc trưng nổi bật của chủ nghĩa Đại Hán tộc; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên phát triển của quốc gia phong kiến độc lập, tự chủ, thời kỳ trưởng thành của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng đó đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý, nhất là nghệ thuật đánh bại quân xâm lược ngay từ cửa ngõ đất nước được thể hiện ở một số điểm sau:

Một là, quyết định “phương lược” đánh giặc sớm, đúng đắn, sáng tạo. Có thể thấy phương lược trong trận chiến Bạch Đằng là hết sức táo bạo nhưng đúng đắn, chính xác mà trước đó chưa hề có trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn về tương quan so sánh lực lượng, Ngô Quyền thấy rõ chỗ mạnh của địch: quân đông, vũ khí, trang bị mạnh, nhất là các thuyền chiến lớn. Nhưng quan trọng hơn, thấy rõ những điểm yếu chí tử của chúng; đó là: tướng giặc [Lưu Hoằng Tháo] còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trận mạc, kiêu ngạo, chủ quan, khinh địch, không có nội ứng lại cơ động từ xa đến, địa hình xa lạ, hiểm trở nên tinh thần mỏi mệt, cùng những ám ảnh bởi thất bại của lần xâm lược trước. Về phía ta, Ngô Quyền đã diệt trừ nội phản, ổn định nội bộ bên trong để rảnh tay chống giặc ngoại xâm; được nhân dân đồng tình ủng hộ, sự đồng lòng của các tướng lĩnh, hào kiệt quyết tâm đánh giặc giữ nước. Bởi thế, trong thời gian ngắn, lực lượng của ta đã có tới vài vạn người; trong đó, đạo quân Ái Châu do Ông trực tiếp tuyển mộ, huấn luyện làm nòng cốt. Tuy có nhiều thuận lợi, nhưng quân ta cũng gặp nhiều khó khăn, đó là: thời gian chuẩn bị ngắn, lực lượng kháng chiến chưa được huấn luyện kỹ, vũ khí, trang bị còn thô sơ so với địch. Song xét tổng quan, sức mạnh tổng hợp của ta mạnh hơn địch. Thứ nhất, yếu tố con người - toàn dân ủng hộ và tập hợp được các tướng lĩnh có tài thao lược. Thứ hai, khu vực ta lựa chọn đánh địch có địa hình thiên hiểm, thuận lợi cho ta bày thế trận để phát huy cao nhất sức mạnh của các lực lượng và trang bị, vũ khí [thuyền nhỏ, cung nỏ]. Thứ ba, quân Nam Hán từ xa đến nên tinh thần uể oải, không thông thạo địa hình, thổ nhưỡng, thủy triều. Như vậy, quân ta hội tụ đủ ba nhân tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, lấy “sức nhàn thắng sức mỏi”. Do đó, khi bàn phương lược mưu, kế, thế trận chống giặc với các tướng sĩ, Ngô Quyền nói: “Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi; quân ta sức còn mạnh địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Song họ có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biểntrước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hơn kế ấy cả”2. Sau khi phân tích đánh giá kỹ những điểm mạnh, yếu của ta và địch, Ngô Quyền quyết định tổ chức một trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt đạo binh thuyền giặc ngay tại vùng cửa sông Bạch Đằng, nơi chúng ắt phải đi qua để tiến vào nội địa nước ta.

Hai là, chủ động nắm tình hình địa hình, thời tiết, khí hậu, thủy văn, thiết lập thế trận đánh địch hiểm, chắc. Theo sử sách để lại, sông Bạch Đằng có tên gọi là sông Vân Cừ, cửa sông rộng hơn 2 dặm, ở đó có nhiều núi cao, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời; cây cối um tùm che lấp bờ sông, thực là một nơi hiểm yếu. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi của thế trận này là việc bố trí và phát huy sức mạnh của các bãi cọc ngầm dưới lòng sông. Các bãi cọc này phải ở nơi hiểm yếu, được ngụy trang bằng con nước thủy triều lên và sẽ phát huy tác dụng khi địch rút chạy ra biển vào thời điểm thủy triều xuống. Để làm được điều đó, Ngô Quyền đã khéo chọn: những người giỏi địa lý trực tiếp theo dõi, tìm hiểu trong dân nắm chắc quy luật [thời điểm, mức độ, tốc độ] thủy triều lên xuống hằng ngày để chọn vị trí đóng cọc; huy động quân, dân vào rừng đẵn gỗ, vận chuyển ra vị trí tập kết; động viên nhân dân tích cực rèn mũi sắt,... Chính vì thế, chỉ trong thời gian ngắn, mặc dù, thời tiết những ngày cuối năm, mưa dầm, gió bấc, trời rét buốt da, buốt thịt kéo dài, nhưng hàng nghìn cây gỗ lim, sến đầu vạt nhọn, bịt sắt đã được bí mật cắm xuống lòng sông [khu vực cửa Nam Triệu hiện nay]. Một vấn đề quan trọng nữa quyết định thắng lợi của trận đánh là bố trí lực lượng chính diện và hai bên sườn đủ mạnh, phối hợp chặt chẽ với nhau để chặn đứng và tiến công mãnh liệt quân địch tại cửa sông Bạch Đằng. Đây là vấn đề có tính then chốt, bởi nếu để địch tràn qua điểm chặn đầu, tiến sâu vào nội địa thì thế trận do ta dày công xây dựng sẽ trở nên vô nghĩa. Nhận rõ điều này, Ngô Quyền đã chú trọng xây dựng thế trận chặn địch vững chắc phía đầu nguồn cùng một lực lượng tinh nhuệ do Ông trực tiếp chỉ huy; còn lại phần lớn quân thủy, quân bộ được bố trí mai phục ở hai bên bờ sông có nhiệm vụ đánh ập vào hai bên sườn, dìm địch xuống lòng sông, tạo điều kiện cho thủy quân tiêu diệt. Việc bố trí bãi cọc, triển khai thế bố trí lực lượng ở cửa sông Bạch Đằng tạo thành thế trận thủy chiến hiểm hóc, vững chắc - “đất chết” của địch.

Ba là, tổ chức chỉ huy tài tình, khéo léo, linh hoạt, kịp thời theo “con nước”. Để trận quyết chiến chiến lược kết thúc thắng lợi trong một lần thủy triều lên xuống là việc làm không hề đơn giản. Nếu tính toán của ta không chính xác, “lực không mạnh, thế không vững”, không buộc được địch phải rút chạy đúng thời điểm [thủy triều xuống] thì trận đánh không những không thắng lợi mà có thể phải chịu thất bại nặng nề, đất nước sẽ lại chìm trong cảnh nô lệ của phong kiến phương Bắc. Trong trận quyết chiến chiến lược này, Ngô Quyền đã khéo phán đoán, xử lý và dẫn dắt tình huống, chuyển hóa thế trận một cách linh hoạt, có lợi nhất để từng bước phá vỡ đội hình hành quân đường dài của địch, không cho chúng triển khai đội hình chiến đấu, tiêu diệt từng bộ phận, tiến lên đánh bại hoàn toàn quân địch. Ở đây còn biểu hiện rõ nghệ thuật nghiên cứu, nắm chắc quy luật tự nhiên, theo dõi chặt chẽ “nhất cử, nhất động” của đạo binh thuyền địch; từ đó, tính toán nhử, dụ địch vào “đất chết” để tạo và chớp thời cơ tiến công tiêu diệt chúng. Trong suốt trận đánh, Ngô Quyền luôn nắm và giữ quyền chủ động trên chiến trường, vận dụng linh hoạt các thủ đoạn tác chiến: vừa đánh, vừa lui, vận động tiến công kết hợp với cản phá bằng trận địa cọc, truy kích tiêu diệt địch tháo chạy. Với nghệ thuật phát triển cách đánh liên tục, sáng tạo theo tiến độ trận đánh nên quân địch đang từ thế chủ động đã lâm vào bị động đối phó, bất ngờ,... đẩy chúng đến chỗ tuyệt vọng, sụp đổ và bị tiêu diệt hoàn toàn.

Ngoài ra, Ngô quyền còn chủ động khơi dậy tinh thần độc lập dân tộc, cố kết cộng đồng, động viên mọi tiềm lực trong dân, nhất là sức người, sức của cho trận đánh. Khi nghe tin Ông dấy binh đánh giặc, nhân dân khắp nơi nô nức mang lương thực, thực phẩm, vũ khí, thuyền chiến tham gia và ủng hộ cuộc kháng chiến. Các thanh niên, trai tráng ở Gia Viện [nơi Ngô Quyền đặt đại bản doanh], Lâm Động [Thủy Nguyên, Hải Phòng], Đằng Châu [Kim Động, Hưng Yên],… người mang vũ khí, kẻ mang thuyền bè, tìm đến cửa quân xin diệt giặc. Ba anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở Hoàng Pha [Hoàng Động, Thủy Nguyên], ông tổ họ Phạm ở Đằng Giang [An Hải, Hải Phòng] cũng chiêu mộ dân binh, hăng hái tham gia kháng chiến,… làm cho đội quân của Ngô Quyền, từ một đội binh Ái Châu đã nhanh chóng trở thành đội quân dân tộc.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc. Nó đã để lại cho thế hệ sau bài học quý về nghệ thuật đánh bại quân địch ngay từ trận đầu, tuyến đầu ở môi trường sông nước, kết thúc thắng lợi chiến tranh trong thời gian cực ngắn. Bài học đó đã được vận dụng trong lịch sử chống ngoại xâm của cha ông ta và đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nhất là đối với chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tương lai [nếu xảy ra].

PGS, TS. NGUYỄN MINH ĐỨC
_______________

1 - Gọi là Tĩnh Hải quân vì lúc đó nước ta chưa có quốc hiệu chính thức.

2 - Đại Việt sử ký toàn thư trọn bộ, Nxb Thời đại, H. 2011, tr. 119.

Video liên quan

Chủ Đề