Nguyên tố phóng xạ đầu tiên là gì

Bước vào đợt trao giải thưởng Nobel năm 2005, xin trân trọng giới thiệu một gia đình nổi bật nhất trong lịch sử của giải thưởng danh giá này qua bài viết của tác giả Trần Thanh Minh.

Phóng toHenry Becquerel [1852-1908], người phát hiện ra hiện tượng phóng xạ Bước vào đợt trao giải thưởng Nobel năm 2005, xin trân trọng giới thiệu một gia đình nổi bật nhất trong lịch sử của giải thưởng danh giá này qua bài viết của tác giả Trần Thanh Minh.

Chưa có một gia đình nào như gia đình Curie giữ nhiều kỷ lục về giải Nobel. Danh giá đến vậy: Năm cá nhân. Hai đôi vợ chồng. Một phụ nữ với cú đúp [hai lần nhận giải Nobel]

Sự kiện này, theo tôn chỉ của giải Nobel, phản ảnh rõ rệt sự tỏa sáng của nhiều ý tưởng siêu việt nhất, sự cống hiến lớn lao nhất của một gia đình cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại, cho hạnh phúc con người. Pierre Curie và Marie Curie, Irène Curie và Frederic Joliot Curie, những tên tuổi ấy đã rực sáng trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, giai đoạn được xem như buổi bình minh của thời đại hạt nhân nguyên tử ngày nay. Họ đã tạo ra những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời những ngành khoa học mới hết sức quan trọng, vừa mang tính khoa học sâu sắc, vừa có tính ứng dụng rộng rãi trong nhiều mặt của đời sống.

Nhà khoa học nữ vĩ đại nhất thế kỷ XX

Phóng toMarie Curie và chồng là Pierre Curie Câu chuyện bắt đầu với phát minh về tia phóng xạ. Có lẽ ai cũng biết, trong thế giới tự nhiên có những dạng vật chất mắt thường không nhìn thấy. Tia X hay thường gọi là tia Rơnghen là một ví dụ. Tia X, về bản chất gần như ánh sáng: có thể làm đen tấm phim ảnh. Khác với ánh sáng: tia X không nhìn thấy bằng mắt thường, lại có khả năng xuyên qua lớp vải, gỗ, hay da thịt con người.

Nhưng Tia X là nhân tạo, được tạo ra trong một ống phóng điện chân không, khi cho một chùm hạt electron tăng tốc trong một điện áp, rồi đập vào điện cực dương. Vậy trong tự nhiên có tồn tại một loại tia tương tự tia X không?

Người đi tìm câu trả lời đầu tiên là vị giáo sư vật lý danh tiếng của Đại học Bách khoa Paris, Henry Becquerel. Và ông đã phát hiện rằng, một mẫu quặng Uran [còn gọi là Urani] luôn phát ra một loại tia cũng không nhìn thấy bằng mắt thường và cũng làm đen tấm phim, tức là có tính chất như tia X. Đây quả là loại tia tự nhiên đang săn tìm. Thoạt đầu Becquerel gọi nó là tia Urani.

Phát hiện này lập tức cuốn hút bà Curie vào cuộc. Bên cạnh sự hỗ trợ và cộng tác của chồng, bà giành toàn bộ trí tuệ, sức lực để nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và khám phá nhiều bí ẩn xung quanh tia mới kỳ lạ này. Sự nghiệp khoa học đó gần như vận vào cả cuộc đời, số phận của bà Marie Curie. Bà sống cho nó và cũng chết vì nó.

Khám phá đầu tiên của Marie Curie là tìm thấy một loại quặng khác, quặng Thôri, cũng phát ra loại "tia Urani". Độc quyền của Urani, do vậy, bị phá bỏ và tên gọi "tia Urani" mà Becquerel gán cho trở nên không thích hợp nữa. Ông bà Curie đã thay vào đó một tên mới: tia phóng xạ [hay gọi tắt là bức xạ]. Đồng thời, họ tổng quát hoá hiện tượng các nguyên tố có thể tự động phát ra tia phóng xạ bằng một khái niệm mới: hiện tượng phóng xạ hay sự phóng xạ, và gọi những nguyên tố có tính chất như Urani và Thôri là những nguyên tố phóng xạ. Các khái niệm này ra đời ghi những dấu son trên con đường phát triển về nhận thức của con người đối với cấu trúc thế giới vật chất, còn các danh từ mới ấy, cho đến nay, đã trở thành kinh điển và được giới khoa học giữ nguyên.

Không dừng ở đó, ông bà Curie mở rộng khảo sát các tác động sinh hoá của tia bức xạ lên cơ thể sống, hay lên môi trường vật chất nói chung. Những kết quả thu được mở đường cho những nghiên cứu ứng dụng tia bức xạ trong nhiều lĩnh vực của đời sống sau này.

Hiển nhiên, những kết quả nghiên cứu đặc sắc và phong phú của ông bà Curie đã xác nhận và nâng kết quả khảo sát ban đầu của Becquerel lên một tầm cao mới, và qua đó, đưa cả ba người cùng đến với vòng nguyệ quế: Giải thưởng Nobel Vật lý năm 1903. Riêng phần ông bà Curie, ngoài tấm huy chương vàng, một nửa số tiền thưởng là tấm bằng với dòng chữ: "ghi nhận công lao phi thường mà họ [Piere và Marie] cống hiến bằng những thành quả nghiên cứu về khái niệm bức xạ đề xuất bởi giáo sư Henry Becquerel".

Dĩ nhiên, Giải Nobel làm rạng rỡ thêm cho các nhà phát minh, Becquerel và ông bà Curie vốn đã nổi tiếng. Nhưng, như nhiều tờ báo thời đó nhận xét, chính sự nổi tiếng của họ đã tôn vinh giá trị của bản thân giải thưởng Nobel trong buổi đầu của giải đó.

Với ông bà Marie Curie, năm 1903 là một năm đầy ắp hạnh phúc. Tháng 6: Marie bảo vệ xuất sắc luận văn về đề tài "Nghiên cứu các chất có tính phóng xạ" chỉ trong 6 phút và được hội đồng nhất trí cấp cho bà học vị Tiến sĩ Vật lý. Tháng 11: Viện Hoàng gia Luân đôn tặng ông bà huy chương khoa học cao nhất nước Anh - Huy chương Đêvi. Tháng 11: Giải thưởng Nobel. Đây là trường hợp đầu tiên, trong lịch sử của giải này, một đôi vợ chồng cùng nhận giải Nobel. Trong lịch sử của giải Nobel [kể giải Nobel Hòa bình] chỉ có 4 trường hợp như vậy.

Câu chuyện mò kim đáy biển

Giai đoạn tiếp theo của ông bà Curie còn gian truân gấp bội, đó là sự tách chiết từ quặng Urani xem nguyên tố cụ thể nào trong đó phát ra tia phóng xạ.

Tháng 7 năm 1898, ông bà Curie viết báo cáo: " Chúng tôi tin tưởng rằng trong những chất tinh chiết được từ quặng Urani có một nguyên tố kim loại chưa hề biết. Chúng tôi đề nghị gọi nó là Pôlôni [tên La tinh - Polonium, ký hiệu - Po] để ghi nhớ Tổ quốc của một trong hai chúng tôi". Tổ quốc đó là quê hương thân yêu Ba lan [Pologne] của Marie Sklodowska Curie. Và tên nguyên tố Polonium có cùng từ căn với tên nước Pologne. Ngoài ra, các đặc trưng cơ bản của nguyên tố Polôni, như khối lượng nguyên tử, tính chất vật lý, tính phóng xạ, vị trí trong bảng tuần hoàn nguyên tố, cũng lần lượt được ông bà xác định.

Tiếp theo, ngày 26-12 năm đó, ông bà lại tuyên bố trong quặng Urani còn chứa một nguyên tố phóng xạ thứ hai nữa chưa hề biết và đề nghị đặt tên là Rađi [tên La tinh - Radium; ký hiệu - Ra]. Khả năng phóng xạ của Rađi đã được xác định mạnh gấp Urani nguyên chất gần cả 1.000 lần. Ngoài ra, trong máy quang phổ đã tìm thấy một vạch phổ mới chứng tỏ sự xuất hiện một nguyên tố mới trong mẫu quặng. Với các nhà vật lý, bằng chứng về sự tồn tại của Rađi như thế đã đủ tin cậy. Nhưng các nhà hoá học đòi hỏi tường minh hơn: "phải đưa ra đây một mẫu, dù nhỏ, cho chúng tôi xem coi!".

Đây là một đòi hỏi vô cùng khó khăn, gần như chuyện "mò kim đáy biển". Vì hàm lượng Rađi trong quặng Urani quá ít, chỉ chiếm một phần vạn [0,001%]. Việc thu được một lượng đủ để có thể nhìn thấy, xác định được trong lượng nguyên tủ v.v...không dễ dàng chút nào. Trước hết cần có 1 tấn quặng. Lấy tiền đâu để mua 1 tấn quặng Urani? Cái khó ló cái khôn, ông bà Curie nghĩ đến xỉ quặng phế thải sau khi dùng trong công nghiệp tinh chế thuỷ tinh Bôhem. Rồi may mắn lại đến, với sự nhiệt tình vận động của đồng nghiệp, chính phủ Áo gửi tặng bà 1 tấn xỉ quặng Urani.

Từ đó, suốt 4 năm ròng rã, mỗi ngày xử lý từng 20 kilôgam quặng. Những bàn tay trần mãnh mai chỉ quen cầm bút đã dầm dề trong dung dịch quặng phóng xạ đến tươm máu. Và nguy hại hơn, thời đó chưa có điều kiện để phòng vệ sự nhiễm xạ, nên Marie đã tích chứa trong người những hiểm họa bệnh máu trắng lúc cuối đời. Mãi đến tháng thứ 45, ông bà mới tích cóp được trong ống thuỷ tinh nhỏ bé một phần mười gam [hay 0,1 gam] tinh chất Rađi. Ít ỏi thật, nhưng vô cùng quý giá, đủ để xác định được khối lượng nguyên tử [226,45], màu sắc [sáng bạc], nhiệt độ nóng chảy [700 độ C], độ phóng xạ [mạnh hơn Urani nguyên chất, không chỉ ngàn lần mà đến cả triệu lần].

Với các kết quả đó, hẳn chẳng còn lý do nào nữa để ngăn cản việc công nhận ông bà Curie là các nhà phát minh nguyên tố mới thứ hai, nguyên tố phóng xạ, nguyên tố Rađi.

Người đàn bà với "cú đúp" hai giải Nobel

Phóng toMarie Curie [1867-1934] Trải qua gian nan thử thách đầy khắc nghiệt, bằng tài năng xuất chúng và lao động quên mình, ông bà Curie đã góp vào kho tàng tri thức nhân loại cùng một lúc hai phát minh quan trọng. Một là, phát hiện được hai nguyên tố mới, điều này đồng nghĩa với hai ô còn trống trong bảng tuần hoàn các nguyên tố giờ đã được lấp đầy. Hai là, đưa ra bằng chứng rằng trong trái đất, bên cạnh những nguyên tố hóa học bền vững, còn có cả những nguyên tố [hay đồng vị] không bền, chỉ sống trong một thời gian hữu hạn, tức là chứng minh sự tồn tại của các hạt nhân phóng xạ tự nhiên.

Sự nghiệp khoa học và cuộc đời của đôi vợ chồng khoa học nổi tiếng nhất trong lịch sử đang độ thăng hoa, một tai nạn giao thông tức tưởi lấy đi mạng sống của Pierre Curie [1906]. Góa bụa ở tuổi 40, Marie Curie đã cố gượng dậy, một mình tiếp nối sự nghiệp hai người còn dang dở. Vừa thay chồng giữ chức Trưởng phòng thí nghiệm vật lý ở Đại học Sorbonne danh tiếng, bà lại được chọn vào ghế Giáo sư Vật lý Đại cương mà chồng để trống ở trường này. Rồi kiêm luôn chức Giám đốc phòng thí nghiệm mang tên Curie ở Viện Radium Paris.

Dù bận rộn như vậy, Marie Curie vẫn không tách rời phòng thí nghiệm. Sau phát minh nguyên tố Ra, bà tìm ra được một phương pháp khác thu được một lượng đáng kể Radium tinh khiết, tức là kim loại Radium. Khó ai ngờ phát minh này ảnh hưởng đến số phận hàng triệu con người trên thế giới một cách rộng lớn và nhanh chóng đến vậy. Trong một thời gian ngắn, nguyên tố Ra đã trở thành phương tiện hữu hiệu trong việc chữa các khối u và kéo dài đời sống người bệnh. Từ đó, một ngành y học mới, y học hạt nhân, ra đời.

Và việc gì phải đến ắt đến. Tám năm sau khi nhận giải Nobel Vật Lý [1903], một giải thứ hai đã được trân trọng trao tặng riêng cho Marie Curie [1911]. Lần này là giải Nobel Hoá Học. Một huy chương vàng, toàn bộ tiền thưởng và tấm bằng khen"ghi nhận công lao [bà] đóng góp cho sự phát triển Hoá Học, do phát minh các nguyên tố mới Radium và Polonium; do xác định các tính chất của Radium và tách thành công Radium ở dạng kim loại nguyên chất ...".

Như vậy, ngoài danh hiệu Người phụ nữ đầu tiên giành được giải Nobel, Marie Curie là 1 trong trong 4 người, trong lịch sử, được trao giải hai lần. Nhưng, đặc biệt, bà lập kỷ lục Người phụ nữ nhận "cú đúp" giải Nobel. Kỷ lục đó, đến nay, ngót 100 năm qua, vẫn chưa ai vượt qua, mặc dù đã có 33 người phụ nữ trong tổng số 763 người được trao giải.

Marie Curie trong phòng thí nghiệm

Tài năng và vinh quang đã ở tận đỉnh cao, song điều cao quý ở người phụ nữ này là không lùi bước trước khó khăn nghèo khổ, không chấp nhận một cuộc sống an nhàn giàu sang, vẫn miệt mài tìm lẽ sống đời mình trong lao động sáng tạo, tiếp tục dấn thân vào con đường phụng sự đồng loại, giúp đỡ đồng bào mình. Với sự tham gia tích cực của Marie Curie, từ một Viện Radium mẹ ở Paris, một loạt viện nghiên cứu và bệnh viện mang tên Radium khác lần lượt mọc lên ở nhiều nước, ở những miền đất nghèo xa xôi của thế giới. Viện Radium ở Hà Nội, nằm trên phố Quán sứ, tiền thân Bệnh viện K bây giờ, đã ra đời đúng vào thời đó, năm 1923. Chữ ký của chính Marie Curie vẫn lưu lại trong các chứng chỉ sử dụng kèm theo những chiếc kim phóng xạ Rađi từ Paris gửi sang để điều trị những bệnh nhân ung thư. Và năm 1923 có thể được xem như một mốc thời gian quan trọng đáng ghi nhớ trong lich sử ứng dụng thành tựu của năng lượng nguyên tử ở Việt Nam.

Riêng với tổ quốc Ba Lan mà bà phải ly hương từ trẻ và luôn khắc khoải nhớ thương, Marie Curie đã đưa ra lời hiệu triệu quyên góp xây một Viện Nghiên cứu Radium khang trang cho thủ đô Varsava. Sau đó, bà trở về quê hương cùng Tổng thống Ba lan đặt viên gạch khởi công xây dựng viện này [1925]. Chưa có nguồn phóng xạ? Bà lại kêu gọi sự quyên góp của đông đảo người hâm mộ Mỹ. Rồi lại thân chinh vượt trùng dương [1929] qua Mỹ nhận tận từ tay tổng thống Hoover tấm ngân phiếu 50 ngàn đôla đủ cho 1gam Rađi. Đây là lần thứ hai, vì trước đó [1921], bà cũng đã qua Mỹ, được Tổng thống Harding thay mặt cho phụ nữ Mỹ tặng 1 gam Rađi để bà nghiên cứu và mở rộng phạm vi chữa bệnh cứu người.

Nguyện vọng cao cả của nhà khoa học luôn đau đáu với nỗi đau của đồng loại, của nhà ái quốc suốt đời mang trong con tim nỗi u hoài với quê hương, đã được toại nguyện.

Tài năng xuất chúng và nhân cách sáng ngời như thế, bà xứng đáng được tôn vinh: nhà khoa học nữ vĩ đại nhất thế kỷ 20.

Radium [Radi] là một nguyên tố hóa học có tính phóng xạ cao và cực kỳ nguy hiểm có thể gây tử vong. Tuy nhiên, nó vẫn được sử dụng để sản xuất nhiều đồ dùng hàng ngày, như đồng hồ đeo tay, bàn chải đánh răng và được cho là có những đặc tính chữa bệnh cho đến khi chất phóng xạ mãnh liệt trong nó được tìm thấy chính là nguyên nhân gây ra những ảnh hưởng xấu tới sức khỏe.

Chất phóng xạ Radium được sử dụng làm mặt đồng hồ, những con số và kim chỉ phát sáng trong bóng tối ở những năm 1900. Nguồn ảnh: EPA
Theo Chemicool cho biết, chất phóng xa radium chiếm khoảng một phần nghìn tỷ trong lớp vỏ trái đất. Một lượng nhỏ chất phóng xạ được tìm thấy trong quặng có chứa urani, bởi nguyên tố hóa học Radi được tạo ra từ sự phân rã của các nguyên tử urani, sau đó đi vào một số nguyên tố hóa học không ổn định khác trước khi kết thúc tại nguyên tố hóa học chì. Có một số đồng vị được biết đến của nguyên tố Radi, nhưng do tốc độ phân rã nhanh chóng của nhiều đồng vị nên không chắc chắn về sự phong phú trong tự nhiên của các đồng vị Ra.

Tính chất chung:

  • Số nguyên tử [số proton trong hạt nhân]: 88
  • Kí hiệu [trong bảng tuần hoàn các nguyên tố]: Ra
  • Khối lượng nguyên tử chuẩn [khối lượng trung bình của nguyên tử]: 226
  • Mật độ: 5,5 g/cm3 [3.2 ounces/inch3]
  • Trạng thái vật chất: rắn
  • Nhiệt độ nóng chảy: 700 độ C [1.292 độ F]
  • Nhiệt độ sôi: 1140 độ C [2084 độ F]
  • Số đồng vị [các nguyên tử trong cùng một nguyên tố có số nơtron khác nhau]: 33
  • Đồng vị phổ biến nhất: Ra-226 [phần trăm chưa được biết đến về sự phong phú trong tự nhiên], Ra-223 [phần trăm chưa được biết đến về sự phong phú trong tự nhiên], Ra-224 [phần trăm chưa được biết đến về sự phong phú trong tự nhiên], Ra-228 [phần trăm chưa được biết đến về sự phong phú trong tự nhiên].

Lịch sử

Marie và Pierre Curie, nhà hóa học người Ba Lan và Pháp, đã phát hiện ra chất phóng xạ radium vào năm 1898, theo Bách khoa toàn thư New World. Khám phá này đến từ nghiên cứu về khoáng chất uranit [quặng mỏ đen bóng hay còn gọi là quặng pecblen] được tìm thấy ở Bohemia [Cộng hòa Séc ngày nay]. Uranium hay urani được gỡ ra từ quặng và phần còn lại được tìm thấy vẫn còn phóng xạ. Sau đó, các phần còn lại của phóng xạ này được tách ra và khi nghiên cứu quang phổ, vật liệu được tìm thấy chủ yếu Bari với một nguyên tố chưa xác định rõ.
Theo Peter van der Krogt một sử gia người Hà Lan, nguyên tố hóa học Radium được đặt tên trong tiếng Latin radius [phóng xạ] hay ray [tia] vì phóng xạ phát ra từ các nguyên tố mới là lớn hơn khoảng 3 triệu lần so với phóng xạ từ urani. Nhiệt độ Curies có thể chiết xuất được khoảng 1 miligam radium từ 10 tấn quặng pecblen, theo trang Royal Society of Chemistry.
Radium nguyên chất được tách ra vào năm 1902 bằng cách điện bởi Marie Curie và Andre Debierne, nhà hóa học người Pháp, theo Bách khoa toàn thư New World. Radium E, được biết đến là bismuth-210, là nguyên tố phóng xạ nhân tạo đầu tiên được tạo ra bằng cách tổng hợp bởi các nhà khoa học tại trường Đại học California, theo trang báo Time cho biết .

Ai biết?

  • Theo trang Chemicool, nguyên tố radium có sự phong phú trong vỏ trái đất khoảng 1 phần nghìn tỷ tính theo trọng lượng. Điều này làm cho nó trở thành nguyên tố nhiều thứ 84 trong lớp vỏ trái đất, theo trang Periodic Table.
  • Radium là kim loại kiềm thổ nặng nhất, theo Bách khoa toàn thư. Các kim loại đất kiềm khác bao gồm berili [beryllium], magiê [magnesium], canxi [calcium], stronti [strontium] và bari [barium].
  • Khi tiếp xúc với không khí, chất phóng xạ radium chuyển đổi từ màu trắng bạc sang màu đen do quá trình oxy hóa, theo trang Lenntech.
  • Theo trang Chemicool, các đồng vị phóng xạ có chu kỳ bán rã dài nhất là radium-226 với chu kỳ bán rã là 1602 năm.
  • Theo Cơ quan chất độc và bệnh Registry [Agency for Toxic Substances and Disease Registry ATSDR], radium thường xâm nhập vào cơ thể khi được hít vào hoặc nuốt phải gây ra những ảnh hưởng tới sức khỏe do phơi nhiễm phóng xạ bao gồm ung thư, thiếu máu, đục thủy tinh thể và gây tử vong.
  • Radium phát ra các hạt alpha [2 proton và 2 neutron liên kết với nhau], hạt beta [electron hoặc positron năng lượng cao] và các tia gamma [các bước sóng năng lượng ánh sáng lớn nhất], theo Bách khoa toàn thư New World.
  • Theo trang Royal Society of Chemistry, radium nằm trong cùng nhóm với canxi và đôi khi được sử dụng để điều trị ung thư xương. Các hạt alpha phát ra từ radium giết chết các tế bào ung thư.
  • Radium chủ yếu được tách ra như một sản phẩm phụ trong khai thác mỏ urani, theo trang Royal Society of Chemistry. Hầu hết các radium đến từ các mỏ quặng urani ở Cộng hòa Dân chủ Congo và Canada.
  • Theo trang Chemistry Explained, hiện nay radium được chiết xuất từ quặng urani theo cách tương tự mà Marie và Pierre Curie đã làm trong những năm cuối thập niên 1890 và đầu những năm 1900.
  • Theo trang Periodic Table, radium được sử dụng trong sản xuất đồng hồ, vẽ các con số và kim chỉ giờ phát sáng có thể nhìn thấy trong bóng tối. Tuy nhiên, việc sản xuất này phải ngừng lại do bởi có quá nhiều công nhân của nhà máy bị chết khi tiếp xúc với nó.
  • Theo Bách khoa toàn thư, radium có thể kết hợp với hầu hết tất cả các phi kim loại, bao gồm oxy, flo, clo, và nitơ.
  • Curie [Ci] là đơn vị được đặt tên theo lượng phóng xạ phát ra, một lượng hạt nhân phóng xạ tương đương với một gram radium, hoặc với tốc độ phân hủy ở 37 tỷ phân hủy mỗi giây, theo Uỷ ban năng lượng hạt nhân Hoa Kỳ [U.S. Nuclear Regulatory Commission] cho biết.
  • Theo trang Lenntech, vì radium xảy ra tự nhiên với số lượng nhỏ trong môi trường nên chúng ta đang tiếp xúc liên tục với một lượng nhỏ phóng xạ. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng nào chỉ ra các mức độ phóng xạ radium có hại.
  • Những ghi chú trong phòng thí nghiệm của Marie và Pierre Curie vẫn còn quá nhiều chất phóng xạ, do bởi nghiên cứu của họ với chất phóng xạ radium chưa được xử lý hết cho đến tận ngày hôm nay, theo Jefferson Lab.
  • Nghiên cứu với radium, Marie Curie là người phụ nữ đầu tiên giành giải Nobel về Vật lý [1903] và cũng là nhà khoa học đầu tiên giành hai giải Nobel [giải thứ hai vào năm 1911], theo trang Biography.
  • Theo Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos, radium được sử dụng để sản xuất ra khí radon, thứ thường được sử dụng để điều trị một số bệnh như ung thư.
  • Radium là một nguyên tố hóa học không ổn định và trải qua nhiều giai đoạn phân rã phóng xạ mới đạt đến sản phẩm cuối cùng là chì, theo Bách khoa toàn thư New World.

Nghiên cứu hiện nay

Radium thường được sử dụng để điều trị các loại bệnh về ung thư khác nhau. Trong một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Journal of Nuclear Medicine, Isis Gayed và các nhà nghiên cứu đến từ Texas thảo luận về cách điều trị ung thư xương di căn gây ra bởi ung thư tuyến tiền liệt. Các bệnh nhân được điều trị bằng đồng vị Ra-223 và theo dõi chặt chẽ thông qua các phương pháp điều trị. Một số yếu tố được cân nhắc, so sánh kỹ càng trước và sau khi điều trị, bao gồm cả mức độ đau đớn, PSA [kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt], creatinine và các giá trị huyết học. Những bệnh nhân có PSA, nồng độ creatinin và nồng độ hemoglobin cao hơn thường đáp ứng tốt hơn khi sử dụng các phương pháp điều trị bằng radium.
Một bài báo năm 2014 được đăng bởi Ashley Lehman, một nhà nghiên cứu người Mỹ được công bố trên tạp chí Journal of Nuclear Medicine, thảo luận về cách dùng thuốc trong nghiên cứu trên, radium-223 điclorua [Xofigo]. Khi chất phóng xạ radium tiếp xúc với xương, nó hoạt động giống như canxi và lực hút hướng về phía hình thành xương mới được diễn ra. Các radium trong thuốc tại các khu vực ung thư xương di căn bị thiệt hại từ các hạt alpha được phát ra bởi các radium phân rã, chủ yếu giới hạn ở những tế bào ung thư bao quanh như các hạt alpha chỉ đi được khoảng cách ngắn. Nghiên cứu kết luận rằng việc sử dụng radium-223 là một điều trị đầy hứa hẹn cho những người bị ung thư tuyến tiền liệt và điều trị tương tự được nghiên cứu gần đây với các bệnh nhân bị ung thư vú phát triển thành ung thư xương di căn.
Các nghiên cứu liên tục được tiến hành, sử dụng radium-223 để điều trị bệnh ung thư vú, bao gồm một thử nghiệm ngẫu nhiên mù đôi, placebo-control [một loại thuốc giả] được kiểm soát bởi một nhóm các nhà nghiên cứu Mỹ, cùng một bản tóm tắt được công bố trong Hiệp hội Nghiên cứu ung thư Mỹ vào năm 2015. Nghiên cứu này có tất cả 227 người tham gia nghiên cứu, những ảnh hưởng và mức độ an toàn khi sử dụng radium để điều trị ung thư xương di căn bị gây ra do ung thư vú.
Nguồn : Chemistry Explained,Royal Society of Chemistry,Chemicool,

Video liên quan

Chủ Đề