Tại sao ruột non là cơ quan chủ yếu của hệ tiêu hóa trong việc hấp thụ chất dinh dưỡng

Ruột non nằm ở vị trí nào?

Ruột non dài khoảng 5-9m, đường kích từ 1.5-3cm là đoạn dài nhất của ống tiêu hóa, đi từ môn vị của dạ dày đến góc tá - hỗng tràng. Ruột non gồm ba phần là tá tràng, hỗng tràng và hồi tràng.

Tá tràng

Đây là bộ phận đầu của ruột non có chiều dài khoảng 25cm và có hình chữ C, Tá tràng bao quanh đầu tụy và theo đường gấp khúc, phần ở trên hơi phình to và được gọi là bóng tá tràng.

Hỗng tràng và hồi tràng

Chiều dài của 2 bộ phận này khoảng từ 6-7m, ⅘ ở đoạn đầu là hỗng tràng, phần còn lại là hồi tràng. Thông thường ranh giới của 2 bộ phận này sẽ không được rõ ràng.

Hỗng tràng và hồi tràng nằm trong ổ bụng, dưới đại tràng ngang và mạc treo đại tràng ngang, phía trên là các tạng trong chậu hông bé, bên cạnh là đại tràng lên và đại tràng xuống. Hồi tràng và hỗng tràng được bao bọc bởi mạc nối lớn.

Ảnh: Ruột non nằm ở vị trí nào

1. Hệ tiêu hóa gồm những cơ quan nào?

Hệ tiêu hóa con người gồm rất nhiều cơ quan, bắt đầu từ miệng là nơi nhận thức ăn đến hậu môn thải chất không tiêu hóa được ra ngoài. Cơ quan này chịu trách nhiệm phá vỡ cấu trúc, hấp thụ chất dinh dưỡng cần thiết từ thực phẩm để sử dụng cho hoạt động sống. Để thực hiện điều này, cần sự kết hợp của cả hoạt động nhai, nghiền cơ học và các enzyme phân hủy sinh học.

Hệ tiêu hóa bao gồm nhiều cơ quan, giữ vai trò rất quan trọng trong cơ thể

Dưới đây là các chức năng nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan trong hệ tiêu hóa:

1.1. Cổ họng

Cổ họng là nơi tiếp nhận thức ăn từ miệng để đi xuống thực quản. Đây chỉ là cơ quan trung gian giúp vận chuyển thức ăn.

1.2. Thực quản

Thực quản nằm dưới cổ họng, là một ống dài có chức năng đưa thức ăn xuống dạ dày. Thực quản tạo những cơn nhu động co thắt để đẩy thức ăn xuống, đồng thời giữ thức ăn ở dạ dày không bị trào ngược lên bằng một “van” cơ học.

1.3. Túi mật

Đây là một túi nhỏ, nằm sát gan. có chiều dài khoảng 80 - 100mm. Túi mật có tác dụng co bóp đẩy dịch mật vào ống mật chủ, từ đó vào tá tràng và xuống ruột non, giúp tiêu hóa các chất béo. Túi mật có vai trò quan trọng trong hệ tiêu hóa của cơ thể.

1.4. Gan

Gan có vai trò quan trọng trong hệ tiêu hóa, giúp tổng hợp protein huyết tương, dự trữ glycogen và thải độc. Đây được ví như nhà máy hóa chất của cơ thể, đảm trách và điều hòa các phản ứng hóa sinh.

Dạ dày là cơ quan tiêu hóa, phân hủy thức ăn quan trọng

1.5. Dạ dày

Dạ dày là cơ quan quan trọng, nó được cấu tạo dạng một cái túi gồm rất nhiều cơ. Khi tiếp nhận thức ăn từ thực quản xuống, acid và enzyme sẽ được tiết ra, trộn lẫn với thức ăn để thủy phân các protein và dưỡng chất cần thiết.

Thời gian lưu trữ của thức ăn tại dạ dày khá lâu do phải thực hiện quá trình phân hủy hầu hết thức ăn, kết quả là dạng chất lỏng hoặc bột nhão sẽ được di chuyển xuống ruột non.

1.6. Ruột non

Ruột non của con người dài đến 6 mét, là nơi thức ăn sẽ tiếp tục được phân hủy, phá vỡ cấu trúc nhờ các enzyme tiết ra từ mật gan hoặc tuyến tụy. Với chiều dài như vậy¸ nhu động ruột giúp thức ăn di chuyển suốt cơ quan này, đồng thời trộn đều thức ăn với dịch tiêu hóa.

Thức ăn qua ruột non tiếp tục được phân hủy tại tá tràng, sau đó dưỡng chất được hấp thụ tại hỗng tràng và hồi tràng trước khi chuyển vào máu.

1.7. Đại tràng

Khi quá trình tiêu hóa, hấp thu dưỡng chất kết thúc, các chất còn lại không hấp thu được sẽ được chuyển xuống đại tràng ở dạng lỏng. Tại đây đại tràng tiếp tục hút nước từ dịch để chuyển chất thải thành dạng rắn, hay còn gọi là phân. Thông thường, phân được xử lý ở đại tràng trong khoảng 36 giờ.

Đại tràng là nơi xử lý thức ăn dư thừa thành phân

Phân chủ yếu chỉ gồm mảnh vụn thức ăn và vi khuẩn. Vi khuẩn này cũng thực hiện nhiều chức năng hữu ích cho cơ thể như: tổng hợp Vitamin, xử lý chất thải, cặn lắng, bảo vệ cơ thể chống lại khuẩn hại.

1.8. Trực tràng

Trực tràng nằm ngay dưới đại tràng, có chiều dài khoảng 20cm. Khi phân được di chuyển xuống đây, các dây thần kinh đặc biệt sẽ bị kích thích, sau đó truyền tín hiệu đến vỏ đại não cho biết bạn cần đi đại tiện.

Ở trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ sơ sinh, chức năng này hoạt động chưa hoàn thiện nên trẻ chưa thể đi đại tiện tự chủ. Ở người lớn, khi muốn đi vệ sinh, não lại truyền tín hiệu làm giãn cơ vòng để đẩy phân ra khỏi cơ thể. Nếu muốn nhịn, cơ thắt và trực tràng sẽ điều chỉnh, tạm thời bỏ qua cảm giác muốn đi vệ sinh, phân tiếp tục được giữ lại tại đây.

Thức ăn trải qua quá trình tiêu hóa dài để cơ thể hấp thu tốt nhất dưỡng chất

1.9. Hậu môn

Hậu môn là cơ quan cuối cùng của hệ tiêu hóa, được cấu tạo từ cơ sàn chậu và cơ thắt hậu môn. Chức năng của cơ quan này là lưu trữ và đào thải phân. Khi đi vệ sinh, hậu môn sẽ tiết dịch nhầy bôi trơn để phân có thể di chuyển dễ dàng khỏi cơ thể.

Như vậy, tiêu hóa thức ăn ở con người là một quá trình dài, phức tạp với sự tham gia, phối hợp hoạt động của nhiều cơ quan trong cơ thể. Bất cứ vấn đề xảy ra ở một cơ quan nào của hệ tiêu hóa đều có thể ảnh hưởng, làm định trệ việc tiêu hóa thức ăn và hấp thu dưỡng chất.

1. Vị trí của ruột non và ruột già

Ruột non – ruột già nằm giữa dạ dày và hậu môn, nằm gọn trong khoang bụng của cơ thể. Tuy nhiên, chiều dài của chúng có thể lên đến 5 – 7 m tùy cách đo đạc.

Hình dạng chung của ruột non và ruột già là một cấu trúc hình ống dài.

Trong đó ruột non có chiều dài khoảng 5.5 – 9m, rộng khoảng 1.5 – 3cm.

Ruột già [đại tràng] là phần áp cuối trong hệ tiêu hóa, có độ dài trung bình khoảng 1,4 – 1,8m. Ruột già ngắn hơn ruột non 4 lần nhưng tiết diện lại lớn hơn ruột non.

Quảng cáo

Khuếch tán thụ động

Thuốc khuếch tán qua màng tế bào từ một vùng có nồng độ cao [ví dụ: dịch tiêu hóa] đến một trong những nơi nồng độ thấp [ví dụ như máu]. Tốc độ khuếch tán tỷ lệ thuận với gradient nồng độ nhưng cũng phụ thuộc vào sự tan trong lipid của phân tử, kích cỡ, mức độ ion hóa và diện tích bề mặt hấp thụ. Bởi vì màng tế bào là lipid, các thuốc tan trong lipid khuếch nhanh nhất. Các phân tử nhỏ có xu hướng xuyên qua màng nhanh hơn các phân tử lớn hơn.

Hầu hết các loại thuốc là axit hữu cơ yếu hoặc các bazơ, ở dạng không ion hóa và ion hoá trong môi trường nước. Dạng không ion hoá thường tan trong lipid [lipophilic] và khuếch tán dễ dàng qua các màng tế bào. Dạng ion hóa có độ hòa tan trong lipid thấp [nhưng độ hòa tan trong nước cao - nghĩa là thân nước] và điện trở cao và do đó không thể xuyên qua màng tế bào.

Tỷ lệ của dạng không ion hóa [là khả năng của thuốc xuyên qua màng] được xác định bởi pH môi trường và pKa của thuốc [hằng số phân ly axit]. pKa là độ pH ở đó nồng độ các dạng ion hóa và không bị ion hóa là bằng nhau. Khi pH thấp hơn pKa, các axit yếu ở dạng không ion hóa nhiều hơn, nhưng ngược lại, các bazơ yếu ở dạng ion hóa nhiều hơn. Do đó, trong huyết tương [pH 7,4], tỷ lệ dạng không ion hóa với dạng ion hóa của một axit yếu [ví dụ có pKa là 4,4] là 1: 1000; trong dịch dạ dày [pH 1,4], tỷ lệ này được đảo ngược [1000: 1]. Vì vậy, khi uống một axit yếu, hầu hết các thuốc vào trong dạ dày ở dạng không ion hóa, được khuếch tán thông qua niêm mạc dạ dày. Đối với một bazơ yếu có pKa là 4,4, tác động là ngược lại; hầu hết các thuốc vào trong dạ dày ở dạng ion hóa.

Về mặt lý thuyết, thuốc có tính axit yếu [ví dụ aspirin] dễ hấp thu hơn qua môi trường acid [dạ dày] so với các loại thuốc cơ bản yếu [ví dụ quinidin]. Tuy nhiên, dù thuốc có tính axit hay bazơ, hầu hết sự hấp thụ xảy ra ở ruột non vì diện tích bề mặt lớn hơn và màng dễ thấm hơn [xem Đường uống Đường uống [Xem thêm Tổng quan về Dược động học.] Sự hấp thu thuốc được xác định bởi tính chất hóa lý, công thức và đường dùng của thuốc. Các dạng thuốc [ví dụ viên nén, viên nang, dung dịch] bao gồm hoạt... đọc thêm ].

Sinh lý bệnh

Tiêu hóa và hấp thu diễn ra bằng ba giai đoạn:

  • Sự thủy phân trong lòng mạch của chất béo, protein, và carbohydrate do enzyme - muối mật làm tăng sự hòa tan chất béo trong giai đoạn này

  • Tiêu hóa bởi các enzym ở vùng riềm bàn chải và tạo ra các sản phẩm cuối cùng

  • Vận chuyển dưỡng chất bằng đường bạch huyết

Thuật ngữ kém hấp thu thường được sử dụng khi bất kỳ giai đoạn nào bị suy giảm, nhưng, chính xác hơn, sự suy giảm pha 1 là rối loạn tiêu hóa chứ không phải là rối loạn hấp thu.

Tiêu hóa chất béo

Các enzyme tụy [lipase và colipase] phân hủy các triglyceride chuỗi dài thành các axit béo và monoglycerides, kết hợp với các axit mật và các phospholipid để hình thành các micelles đi qua các tế bào ruột ở hỗng tràng. Các axit béo đã hấp thu được tổng hợp lại và kết hợp với protein, cholesterol và phospholipid để hình thành các chylomicron, được vận chuyển bởi hệ thống bạch huyết. Các chuỗi triglyceride trung bình được hấp thu trực tiếp.

Các chất béo không được hấp thu chứa vitamin tan trong dầu [A, D, E, K] và có thể một số khoáng chất khác, gây ra thiếu hụt. Sự phát triển quá mức của vi khuẩn dẫn đến phân giải và dehydroxyl hóa muối mật, hạn chế sự hấp thu chất béo. Các muối mật không hấp thu sẽ kích thích tiết nước trong đại tràng, gây tiêu chảy.

Tiêu hóa carbohydrate

Enzyme amylase tụy và các enzym ở riềm chải trên các vi nhung mao phân giải các cacbohydrates và các disaccharides thành các monosaccharides thành phần. Vi khuẩn ở đại tràng lên men cacbonhydrat không hấp thụ thành cacbon dioxit, mêtan, hydro và axit béo chuỗi ngắn [butyrate, propionate, axetat và lactat]. Những axit béo này gây tiêu chảy. Khí gây ra đầy bụng và chướng bụng.

Tiêu hóa protein

Chất pepsin dạ dày bắt đầu tiêu hóa các protein trong dạ dày [và cũng kích thích sự phóng thích của cholecystokinin, điều này rất quan trọng đối với việc tiết các enzym tụy]. Enterokinase, một enzym vùng diềm bàn chải, kích hoạt trypsinogen thành trypsin, nó chuyển nhiều protease tụy thành các dạng hoạt tính của chúng. Các enzym tuyến tụy đã được hoạt hóa thủy phân protein thành oligopeptides, được hấp thụ trực tiếp hoặc thủy phân thành các axit amin.

Mục lục

Cấu tạoSửa đổi

Kích cỡSửa đổi

Chiều dài của ruột non có thể thay đổi rất nhiều, từ ngắn tới 3,00m [9,84ft] đến dài 10,49m [34,4ft], và cũng tùy thuộc vào kỹ thuật đo được sử dụng.[4] Chiều dài điển hình của ruột non ở người là 3–5m.[5][6] Chiều dài phụ thuộc cả vào chiều cao của người đó và cách đo chiều dài.[4] Những người cao hơn thường có ruột non dài hơn và các phép đo thường dài hơn sau khi người đó chết và khi ruột rỗng.[4]

Ruột non có đường kính khoảng 1,5cm ở trẻ sơ sinh sau 35 tuần tuổi thai,[7] và 2,5–3cm [1inch] ở người lớn. Trên X-quang bụng, ruột non được coi là giãn bất thường khi đường kính vượt quá 3cm.[8][9] Trên hình ảnh chụp CT, đường kính trên 2,5cm được coi là giãn ra bất thường.[8][10] Diện tích bề mặt của niêm mạc ruột non của con người, do sự mở rộng của các nếp gấp, nhung mao và vi nhung mao, trung bình là 50 mét vuông.[11]

Các phầnSửa đổi

Ruột non được chia thành ba phần theo cấu trúc.

  • Tá tràng là một cấu trúc ngắn, dài từ 20cm [7,9 inch] đến 25cm [9,8 inch] và có hình dạng giống như chữ "C".[12] Nó bao quanh phần đầu của tuyến tụy. Nó nhận được dưỡng trấp từ dạ dày, cùng với dịch tiêu hóa từ tuyến tụy [enzym tiêu hóa] và gan [mật]. Các enzym tiêu hóa phân hủy protein và mật nhũ hóa chất béo thành các micelle. Tá tràng chứa các tuyến của Brunner, nơi sản xuất ra chất tiết nhiều chất nhầy có tính kiềm chứa bicarbonate. Những chất bài tiết này, kết hợp với bicarbonate từ tuyến tụy, trung hòa các axit dạ dày có trong dịch vị.
  • Hỗng tràng là phần giữa của ruột non, nối tá tràng với hồi tràng. Nó dài khoảng 2,5 m, có các tua cuốn và nhung mao làm tăng diện tích bề mặt của nó. Các sản phẩm của quá trình tiêu hóa [đường đơn, amino acid, axit béo, glixêrin và các thành phần cấu tạo nên nucleotide] được hấp thụ vào máu ở đây. Cơ treo tá tràng đánh dấu sự phân chia giữa tá tràng và hỗng tràng.
  • Hồi tràng là đoạn cuối cùng của ruột non. Nó dài khoảng 3 m, và chứa các nhung mao tương tự như hỗng tràng. Nó hấp thụ chủ yếu vitamin B12 và axit mật, cũng như bất kỳ chất dinh dưỡng còn lại nào khác. Hồi tràng nối với manh tràng của ruột già ở chỗ nối hồi tràng.

Hỗng tràng và hồi tràng được treo trong khoang bụng bằng mạc treo. Mạc treo ruột là một phần của phúc mạc. Động mạch, tĩnh mạch, mạch bạch huyết và dây thần kinh di chuyển trong mạc treo.[13]

Cung cấp máuSửa đổi

Ruột non nhận nguồn cung cấp máu từ động mạch celiac và động mạch mạc treo tràng trên. Đây là cả hai nhánh của động mạch chủ. Tá tràng nhận máu từ động mạch celiac qua động mạch tá tràng tụy trên và từ động mạch mạc treo tràng trên qua động mạch tá tràng tụy dưới. Hai động mạch này đều có nhánh trước và nhánh sau gặp nhau ở đường giữa và đường nối. Hỗng tràng và hồi tràng nhận máu từ động mạch mạc treo tràng trên.[14] Các nhánh của động mạch mạc treo tràng trên tạo thành một loạt các cung trong mạc treo được gọi là cung động mạch, có thể sâu vài lớp. Các mạch máu thẳng được gọi là vasa trực tràng đi từ các cung gần hồi tràng nhất và hỗng tràng đến chính các cơ quan này.[14]

Vi giải phẫu họcSửa đổi

Lưu trữ 2020-09-29 tại Wayback MachineHình ảnh hiển vi của niêm mạc ruột non cho thấy các nhung mao ruột và các màng ngăn của Lieberkühn.

Ba phần của ruột non trông giống nhau ở cấp độ hiển vi, nhưng có một số khác biệt quan trọng. Các phần của ruột non như sau:

Sơ Lưu trữ 2020-09-29 tại Wayback Machine đồ mặt cắt này cho thấy 4 lớp của thành ruột non.

Cơ chế hoạt động của hệ tiêu hóa

  • Tháng Mười 5, 2020
  • No Comments

Nếu hiểu được cơ chế hoạt động của hệ tiêu hóa, bạn sẽ có cách hỗ trợ bộ phận này, giúp cơ thể ngày một khỏe mạnh.

Tiêu hóa là quá trình phân hủy các phân tử thức ăn để cơ thể có thể hấp thu. Trong quá trình tiêu hóa ở người, thức ăn đi vào miệng, quá trình tiêu hóa bắt đầu bằng việc nhai và tác dụng của các enzym trong nước bọt. Mục tiêu của quá trình này là hấp thu chất dinh dưỡng đi nuôi cơ thể.

nh 1: Hệ tiêu hóa cần khỏe mạnh để đảm bảo một sức khỏe tốt.

Cấu tạo hệ tiêu hóa ở người bao gồm những cơ quan quen thuộc như sau:

  1. Miệng: Quá trình tiêu hóa bắt đầu từ khi bạn đưa thức ăn vào miệng. Răng và xương hàm sẽ tiến hành nhai để chia thức ăn thành những miếng nhỏ giúp cho việc tiêu hóa dễ dàng hơn. Các tuyến nước bọt cũng được tiết ra trong quá trình này để trộn lẫn vào với thức ăn, bắt đầu quá trình phân hủy tinh bột thành các chất đường đơn.
  2. Họng: Cổ họng là điểm đến tiếp theo cho thực phẩm từ miệng đi xuống họng và tiếp tục di chuyển xuống thực quản.
  3. Thực quản: Thực quản là một ống cơ kéo dài từ hầu họng đến dạ dày. Thực quản đưa thức ăn xuống dạ dày bằng các đợt các đợt cơn co thắt hay còn được gọi là nhu động. Điểm giữa thực quản và dạ dày có cơ vòng thực quản dưới nhằm giữ cho thức ăn ở dạ dày không trào ngược lên thực quản.
  4. Dạ dày: Dạ dày với các bó cơ khỏe của mình thực hiện chức năng trộn lẫn thức ăn nhận được với axit và các enzyme để thủy phân các protein phức tạp. Khi di chuyển sang ruột non, tất cả các loại thức ăn đã được biến thành chất lỏng hoặc bột nhão.
  5. Ruột non: Đây là nơi diễn ra hầu hết sự hấp thụ các chất dinh dưỡng từ thực phẩm. Ở đây thức ăn tiếp tục được phân tách thành các thành phần phân tử có thể hấp thụ vào máu. Mật từ túi mật và các enzyme tiêu hóa từ tuyến tụy được trộn vào dịch sữa trong tá tràng. Sự hấp thu các chất dinh dưỡng được thực hiện nhờ vào những hình trụ nhỏ giống như ngón tay gọi là nhung mao. Bệnh celiac [bệnh không dung nạp gluten] là một dạng rối loạn trong đó việc hấp thu gluten dẫn đến tổn thương cho nhung mao.

Ba cơ quan đóng vai trò then chốt trong việc giúp dạ dày và ruột non tiêu hóa thức ăn gồm:

– Tuyến tụy: Tuyến tụy có nhiều chức năng khác nhau, trong quá trình tiêu hóa thức ăn tuyến tụy tiết ra một số enzyme vào ruột non để phân hủy protein, chất béo và carbohydrate có trong thức ăn.

– Gan: Gan cũng có nhiều chức năng, nhưng hai chức năng chính của nó trong hệ thống tiêu hóa là tiết dịch mật và lọc máu có các chất dinh dưỡng vừa được hấp thụ đến từ ruột non.

– Túi mật: Túi mật là một túi chứa dịch mật có hình quả lê và nằm ngay dưới gan. Dịch mật được tạo ra ở gan và sau đó nếu cần phải lưu trữ thì dịch mật sẽ được di chuyển đến túi mật thông qua ống mật. Trong bữa ăn, túi mật co bóp để đẩy dịch mật xuống ruột non.

Ảnh: Chế độ dinh dưỡng là yếu tố quan trọng giúp hệ tiêu hóa hoạt động khỏe mạnh.

  1. Đại tràng Chức năng của đại tràng là giúp hấp thụ nước và chất dinh dưỡng còn lại. Thông thường phải mất khoảng 36 giờ để phân đi qua đại tràng. Thành phần chính của phân chủ yếu là mảnh vụn thức ăn và vi khuẩn. Những vi khuẩn này thực hiện một số chức năng hữu ích, như tổng hợp các loại vitamin khác nhau, xử lý chất thải và cặn lắng thức ăn, bảo vệ cơ thể chống lại vi khuẩn có hại.
  2. Trực tràng : Đây là bộ phận kết nối đại tràng với hậu môn với nhiệm vụ nhận phân từ đại tràng và kích thích các dây thần kinh truyền đến vỏ đại não, cho bạn biết cảm giác muốn đi đại tiện. Sau đó, bộ não sẽ quyết định có nên đi đại tiện hay không. Nếu muốn đi vệ sinh, cơ vòng sẽ giãn ra để đưa phân ra khỏi cơ thể. Còn nếu chưa muốn, cơ thắt và trực tràng sẽ điều chỉnh lại để cảm giác muốn đi vệ sinh tạm thời biến mất.
  3. Hậu môn: Đây là phần cuối cùng của đường tiêu hóa, được cấu tạo từ các cơ sàn chậu và hai cơ thắt hậu môn [cơ bên trong và bên ngoài]. Chức năng chính của hậu môn là đựng và đào thải phân, đồng thời tiết dịch nhầy để bôi trơn giúp phân dễ dàng di chuyển ra khỏi cơ thể và hấp thu nước.

Nhìn chung, để đi qua toàn bộ đường ống tiêu hóa , thức ăn mất khoảng 24 đến 72 giờ. Hệ tiêu hóa là một quá trình có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Khi một trong các mắt xích gặp sự cố, phá vỡ sự cân bằng của hệ thống thì sức khỏe ngay lập tức sẽ có những vấn đề bất lợi. Các sự cố thường gặp nhất là táo bón, tiêu chảy, sình bụng, chậm tiêu hóa, chứng ợ nóng, sôi bụng và những cơn đau về dạ dày… Vì vậy, nếu gặp tình trạng này, bạn hãy ngay lập tức điều trị bệnh, tránh làm suy giảm chức năng hệ tiêu hóa, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.

Chuyên mục
  • Báo chí nói gì về chúng tôi
  • Các kỹ thuật điều trị
  • Chấn thương cột sống
  • Chương trình khuyến mại
  • Cơ xương khớp
  • Con Số và Những Câu Chuyện
  • Hỗ trợ sinh sản
  • Kế hoạch phát triển bệnh viện
  • Nội tiết
  • Răng hàm mặt
  • Sổ tay sức khỏe
  • Sự kiện & Hoạt động của bệnh viện
  • Tai mũi họng
  • Thần kinh
  • Tiết niệu & Nam học
  • Tim mạch
  • Tin tức
  • Tin tuyển dụng
  • Trung tâm tiêu hóa
  • Ung bướu
Dịch vụ
  • Khám chuyên khoa
  • Hỗ trợ thai sản
  • Khám sứ khoẻ
  • Tầm soát ung thư
Tin nóng

Chính sách bảo mật

LIỆU PHÁP OZONE – THANH LỌC MÁU CHỮA BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH

THANH LỌC MÁU OZONE: CHĂM SÓC SỨC KHOẺ CHO NGƯỜI KHOẺ

THÔNG TIN TỔNG HỢP VỀ THANH LỌC MÁU OZONE

Hỗ trợ điều trị di chứng hậu Covid-19 bằng liệu pháp Thanh lọc máu Ozone

Share on facebook
Facebook
Share on google
Google+

Video liên quan

Chủ Đề